Lễ Chúa
Ba Ngôi
(Suy
niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúa Nhật ngay sau lễ
Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Giáo Hội hoàn vũ mừng
lễ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đức Giêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa và con
người. Chính nhờ Đức Giêsu, mà con người
biết Thiên Chúa Ba Ngôi Vị.
I. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Thiên
Chúa Duy Nhất
Trong sách Đệ Nhị Luật,
người Do Thái đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng
duy nhất: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đấng
duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn
hết trí khôn hết sức lực ngươi” (Dnl. 6,
4-5). Chính Thiên Chúa là Đấng đã dẫn
dân Do Thái ra khỏi Aicập qua Môsê. Thiên Chúa đã
đồng hành với dân Do Thái qua cột mây lửa trong sa mạc. Trên núi Sinai, Thiên Chúa đã ký kết
giao ước với dân và đã ban thập giới như
điều kiện giao ước. Thiên Chúa tỏ
lộ Ngài cao cả siêu việt và là Đấng yêu
thương dân Do Thái vô cùng.
Trong Tân Ước, khi người ký lục
hỏi Đức Giêsu về giới răn trọng nhất,
Đức Giêsu đã trích dẫn Ngũ Kinh để trả
lời cho ông và các bạn của ông ta. “Giới răn trọng
nhất là: Hỡi Israel hãy nghe đây. Đức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đấng duy nhất, hãy yêu mến
Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực
ngươi. Giới răn thứ hai là: hãy yêu mến
tha nhân như chính mình ngươi” (Mc.12, 29-31). Đức Giêsu đã dạy cùng một điều
mà người Do Thái đã được dạy dỗ và
đã biết.
Thiên Chúa là Đấng duy
nhất, Đấng trổi vượt trên tất cả. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên tất
cả, là Cha của tất cả. Ngài là Thiên Chúa của tất
cả mọi dân tộc, không gì có mà lại không do Thiên Chúa
mà có. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng, Ngài tạo
dựng và làm cho tất cả tiếp tục tồn hữu.
Thiên Chúa làm mưa xuống cho người công
chính cũng như kẻ bất lương. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi
người.
II. Đức Giêsu Mạc Khải về
Thiên Chúa
Khi hài nhi Giêsu
được sinh ra tại Bêlem, không ai biết Ngài là Thiên
Chúa, không ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Ngay khi Đức Giêsu đi rao giảng, cả các
tông đồ là những môn đệ thân tín của Ngài,
cũng chưa nhận biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Họ có cùng ý nghĩ với dân chúng, Đức
Giêsu là một tiên tri, và một cách đặc biệt
hơn, Ngài là Đấng Kitô (Mt.16, 16). Khi
Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục trên thập
giá, các tông đồ chán nản sợ sệt, thậm chí
có môn đồ đã bỏ về quê (hai môn đệ trên đường
Emmau). Những người giết Đức
Giêsu cũng không biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, vì nếu
họ biết đâu họ có giết Ngài. Chính Đức
Giêsu trên thập giá cũng nghĩ rằng người ta
không biết về Ngài một cách thực sự nên đã
xin với Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm
chẳng biết” (Lc.23, ). Mầu nhiệm
nhập thể là mầu nhiệm quá cao vời mà lý trí con
người không thể suy biết được trước
khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Khi Đức Giêsu phục
sinh từ cõi chết, các tông đồ nhận ra Ngài là
Đấng rất đặc biệt. Ngài đến từ Thiên Chúa, Ngài là
Đấng Kitô, Đấng Thiên Sai, và có lẽ còn là Đấng
có gì đặc biệt hơn nữa. Nhờ Chúa Thánh Thần,
các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu
đã nói, đã dạy dỗ khi còn ở với các ông trên
trần thế, về quyền tha tội (Mc.2, 7), về
trước khi có Abraham đã có Ngài (Ga.8, 58), về việc
Ngài và Cha là một (Ga.10, 30), về việc Ngài ngự bên hữu
Thiên Chúa (Mc.14, 62). Các tông đồ nhận ra Đức
Giêsu là người rất đặc biệt của Thiên
Chúa, là Đấng thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa, đến
độ có thể nói, Ngài là Đấng ngang hàng với
Thiên Chúa.
Con người đứng trước
mầu nhiệm Đức Giêsu, đã cố gắng tìm những
từ ngữ để diễn tả thực tại này,
chẳng hạn như nói: Đức Giêsu là Lời Thiên
Chúa nhập thể, Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa.
Công đồng chung Nicea (325) dạy:
Đức Giêsu là Đấng “đồng bản tính” với
Thiên Chúa. Nói bằng một ngôn từ khác, Đức Giêsu
là Thiên Chúa, Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, Đức
Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Những thánh công
đồng chung tiếp theo sau đã tiếp
tục dạy về thực tại Đức Giêsu. Đức Giêsu là Đấng đồng nhất
với Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa. Không phải
Đức Giêsu là Thiên Chúa “khác” độc lập với
Thiên Chúa, nhưng Ngài kết hiệp với Thiên Chúa đến
độ chỉ là một Thiên Chúa. Từ ngữ
ngôi vị (persona) của ngày hôm nay làm cho người ta
tưởng rằng Đức Giêsu là một thực tại
hiện hữu độc lập bên cạnh Thiên Chúa,
như thể nhiều người khác biệt nhau nhưng
đều có cùng bản tính người. Người ta không được hiểu như
vậy về Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần
là một Thiên Chúa nhưng không là ba thực tại hiện
hữu độc lập khác nhau. Khi nói Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần là Ba Ngôi Vị Thiên Chúa, là chúng ta đang diễn
tả nét khác nhau giữa Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu, giữa
Thiên Chúa Cha và Thánh Thần, và giữa Đức Giêsu và Thánh
Thần.
III. Thánh Thần là Thiên Chúa
Chỉ nhờ Đức
Giêsu mà người ta nhận ra Thánh Thần là một ngôi vị
Thiên Chúa. Đức
Giêsu nói về Thánh Thần như một ngôi vị.
Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Đấng Bầu
Chữa, Đấng đến từ Thiên Chúa Cha, Đấng
được Cha và chính Đức Giêsu sai gởi tới
(Ga.14, 16.26; 15, 26; 16, 13-16).
Ngay khi còn tại thế, Đức
Giêsu đã giảng dạy về Thánh Thần như vậy,
nhưng các tông đồ chưa hiểu được, phải
chờ đến khi Đức Giêsu phục sinh và với
tác động của Thánh Thần, các tông đồ mới
nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể; và một
khi nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, các
tông đồ mới nhận ra Thánh Thần là Ngôi Vị
Thiên Chúa. Chính nhờ Đức Giêsu và nhờ Thánh Thần,
mà con người mới hiểu biết hơn về Thiên
Chúa, mới biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị.
Thiên Chúa sáng tạo mọi loài, tạo dựng
mỗi người qua cha mẹ mỗi người. Thiên
Chúa nhập thể làm người để mặc khải
cho con người biết hơn về Thiên Chúa, để
chỉ cho con người biết sống như thế nào
để hạnh phúc thật, để trở nên con cái
đích thực của Thiên Chúa. Thánh Thần được
sai đến để ở với con người, để
thánh hóa con người, để làm con người thuộc
về Thiên Chúa. Thiên Chúa, Đức Giêsu và Thánh Thần là Ba
Ngôi Vị khác biệt nhau, nhưng vẫn luôn là một
Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất trong
ba ngôi vị.
Câu hỏi
gợi ý chia sẻ
1. Bạn có cảm thấy Thiên
Chúa gần gũi với bạn không? Xin
chia sẻ kinh nghiệm
2. Bạn có cảm nhận gì về
mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?
3. Bạn thường cầu
nguyện với ngôi vị nào hơn cả? Bạn có biết
tại sao?
|