Loan báo Tin mừng
cho mọi loài thọ tạo
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tin Mừng Máccô kết thúc với câu 16,8. Tuy vậy, một số Kitô hữu thuộc
thế kỷ i-ii đã tìm cách "bổ túc" truyện
sách Tin Mừng bằng cách thêm vào những cảnh mà họ
nghĩ rằng tác giả Mc hẳn cũng đã thêm vào nếu
ngài viết tiếp. Đoạn văn 16,15-20
nằm trong Phần Kết phụ trội thứ nhất
gọi là "Phần Kết Dài" hay là "Phần Kết
Vô Danh", từ c. 9 đến c. 20 của chương
16. Phần này nói đến những cuộc hiện ra của
Đức Giêsu với bà Maria Mácđala và với các môn
đệ để thúc giục họ, tức Hội
Thánh, đi loan báo Tin Mừng khắp nơi. Các
nhà truyền giáo không có gì phải sợ, bởi vì Đức
Giêsu Phục Sinh vẫn ở với họ. Các độc giả tinh ý sẽ thấy có một
số đề tài trong các câu này không giống gì với những
điều họ đã thấy trong TM II. Họ
cũng còn có thể nhận ra nơi các đề tài này âm
vang của những cảnh quen thuộc ở trong các Tin Mừng
khác, được quy tụ lại để làm cho phần
kết của Mc (16,8) bớt đột ngột (x. Ga
20,11-18; Lc 24,13-35; Mt 28,16-20).
Bản văn chúng ta đọc hôm nay tập
trung vào sứ mạng phổ quát của các tông đồ,
và giống như Lc 24,36-53, nó kết thúc với việc
Đức Giêsu lên trời mà các ông thấy được.
Bài không hề xác định nơi chốn.
Tác giả chỉ muốn chúng ta lưu ý đến điều
cốt yếu: sứ mạng được giao phó cho các
môn đệ.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành ba đơn vị:
1)
Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo
(16,15-18);
2)
Lên trời (16,19);
3)
Ra đi thi hành sứ mạng (16,20).
3.- Vài điểm chú giải
- Nhóm Mười Một (14): Đây chính là Nhóm Mười Hai
trước đây, nhưng nay chỉ còn mười một
tông đồ, vì Giuđa không còn nữa. Nhóm mang nơi mình
dấu chỉ của sự sa sút. Chính
là với Nhóm này mà Đức Giêsu đã hiện ra và giao sứ
mạng loan báo Tin Mừng. Đức Giêsu Phục Sinh hiện
ra và giao sứ mạng, điều này có nghĩa là Người
đã tha thứ cho họ, và lòng cứng tin của họ
đã được thắng vượt.
- Tin Mừng (15): Nội dung của sứ điệp
phải loan báo không được giải thích, mà lại
được tổng hợp trong khái niệm "Tin Mừng".
Do khái niệm này được nối kết với
"các thọ tạo", nó gần với Cl 1,23. Công thức này đã được chuẩn
bị trong Do Thái giáo, nơi mà Thiên Chúa được ca ngợi
là vua của toàn thể công trình tạo thành của Ngài
(Gđt 9,12), là chúa tể của muôn loài thọ tạo và có
lòng yêu thương muôn loài thọ tạo (x. 3 Mcb 2,2.7; 6,2. Sách 3 Mac không thuộc về Kinh Thánh). Vậy Tin Mừng phải loan báo chính là quyền
chúa tể của Đức Kitô Phục Sinh trên toàn thể
thọ tạo.
- phép rửa (16): Các phản ứng của con
người trước sứ điệp Tin Mừng là
tin hoặc không tin. Đức tin có kèm theo
thái độ sẵn sàng lãnh nhận phép rửa. Phép rửa
nhân lãnh trong đức tin đưa tới ơn cứu
độ trong cuộc phán xét chung cuộc.
Trong Tt 3,5 và 1 Pr 3,21, phép rửa và ơn cứu
độ được nối kết với nhau. Sự
đối lập giữa cứu độ và kết án khiến
ta nhớ đến Ga 3,18. Tuy nhiên, ở
đây bản văn hướng đến cuộc phán xét
chung.
- những dấu lạ
đi theo (17): Khác với
những gì xảy ra ở Mc 8,11t, dấu (lạ) được
dùng theo nghĩa tích cực. Dấu lạ không đi trước
đức tin và cũng không diễn tả một uy quyền
chỉ được ban riêng cho các môn đệ (như ở
Mc 6,7-13), mà phải được dùng như là cách Thiên Chúa
chuẩn nhận cho những ai đã trở thành tín hữu.
Dấu lạ cho thấy Đức Kitô là vị
Chúa tể mới của tạo thành, Người muốn
ban ơn cứu độ cho toàn thể tạo thành.
Năm loại phép lạ quy chiếu về sách Cv: đuổi
quỉ (Cv 16,16-18), nói tiếng lạ (Cv 2,1-11), cầm rắn
độc (Cv 28,3-6), chữa bệnh (Cv 31-10; 9,31-35; 14,8-10;
28,8t). Còn thuốc độc có lẽ dựa theo một
truyện kể nào đó (chẳng hạn chuyện sử
gia Êusêbiô kể về Giúttô Bácsaba; x. Hist. Eccl. 3,39,9). Lc 10,19 có nói đến
khả năng đạp trên rắn độc và bọ cạp.
Các dấu lạ xảy ra "nhân danh Thầy",
tức là với việc cầu khẩn danh Đức
Giêsu. Như thế, Đức Giêsu
được tôn vinh tiếp tục ở với cộng
đoàn của Người và hoạt động.
- Chúa Giêsu được đưa lên
trời (19): Danh hiệu
"Chúa Giêsu", rất quen thuộc với Phaolô và sách Cv,
chỉ xuất hiện ở đây trong các Tin Mừng.
Đấng Phục Sinh, Đấng được tôn vinh,
chính là Kyrios (chúa tể), là Kosmokrator (chúa tể vũ trụ).
Cuộc lên trời của Đức Giêsu giả thiết
có hình ảnh của Kinh Thánh về thế giới (= lên trời),
được mô tả phỏng theo cuộc lên trời của
ngôn sứ Êlia (2 V 2,11; 1 Mcb 2,58).
- Ngự bên hữu Thiên Chúa: Câu này dựa theo Tv
109 (110), 1 muốn nói rằng nay Đức Giêsu có tất cả
quyền năng của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi
loài thọ tạo (15-18)
Ta thấy lệnh truyền của
Đức Giêsu quá rõ ràng và cấp bách, nhưng trong thực
tế, dường như không phải thế: Đức
Giêsu không cho biết rõ khoảng thời gian kéo dài từ khi
Người sống lại đến khi Người quang
lâm; Người không loan báo rằng các Dân ngoại sẽ dần
dà đi vào trong Giáo Hội trước khi xảy ra phán xét
chung; các tông đồ đã phải mò mẫm tìm kiếm
phương hướng hoạt động, với sự
giúp đỡ của Chúa Thánh Thần (x. Cv 10; 11,1-8;
15,7-11...). Dù sao, ở đây, chúng ta thấy sứ mạng
của Giáo Hội nơi Dân ngoại đã trở nên rõ
ràng, không ai phản đối nữa: các tông đồ phải
ra khỏi môi trường Do Thái giáo mà loan báo Tin Mừng cho
"mọi loài thọ tạo". Công thức này
tương đương với Mc 1,10
và Mt 28,19: "mọi dân tộc"; chỉ loài người
mới có thể nghe rao giảng và đáp lại bằng
đức tin. Tuy nhiên, cũng có thể, trong chiều
hướng của thánh Phaolô (Rm 8,19-22; Cl 1,1-23), tác giả
nghĩ đến ảnh hưởng của công cuộc
Đấng Cứu thế thực hiện trên toàn vũ trụ.
Tại sao lại "loan
báo Tin Mừng cho muôn loài thọ tạo"? Cây cối có thể nghe
Tin Mừng? Khi người ta nghe theo
sứ điệp của Chúa Kitô, phải chăng tất cả
vũ trụ sẽ được biến đổi?
Điều này sẽ được thánh Phaolô giải thích
trong Thư gửi người Rôma: "Muôn loài thọ tạo
những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải
vinh quang của con cái Người... với niềm trông cậy
là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải
lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với
con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang" (Rm 8,19-21). Khi chúng ta sử dụng
các thọ tạo sai cách, chúng ta làm điều dữ.
Khi sứ điệp Tin Mừng thay đổi con tim chúng ta, muôn loài thọ tạo cũng sẽ
được cứu chuộc; chúng không còn bị sử dụng
cho điều xấu nữa, mà được sử dụng
đúng mục tiêu của chúng như khi chúng được
tạo thành: một phương tiện để yêu
thương và sống hạnh phúc. Sứ mạng
của các môn đệ là làm việc để cho có một
nhân loại mới và một thế giới mới chào
đời.
Đức tin chính là lời đáp trả
lời rao giảng và được liên kết với phép
rửa tội (Cv 2,41; 8,12...). Còn về
các dấu lạ, trong Hội Thánh lúc ấy, không phải
bao giờ các dấu lạ cũng được các tông
đồ thực hiện; nhiều lần Thánh Thần
hành động nơi và qua các thính giả (x. Cv 10,44-46). Các dấu lạ được kể ra như là
những ví dụ, và được chứng thực trong
sách Cv.
* Lên trời (19)
Tác giả đã liên kết hai thực tại
không thuộc về cùng một bình diện, một bên là một
cuộc tỏ mình hữu hình của Đức Giêsu Phục
Sinh kết thúc những cuộc hiện ra, được
diễn tả bằng ngôn ngữ của sách Cv (x. Cv 1,1-11); một bên là một cuộc tôn vinh trên
thiên quốc, gắn liền với cuộc Phục Sinh (x.
Ep 4,10; 1 Tm 3,16...). Thật ra, tác giả Mc không
tường thuật một biến cố xảy ra
trước mặt các khán giả. Các độc giả
sẽ sai lầm nếu tưởng tượng Thăng
Thiên như một "cuộc rời bỏ nhau",
"một chuyến ra đi", "một sự biến
mất". Đức Giêsu không ở quanh quẩn
đâu đó trong vòng bốn mươi này trước khi
lên trời. Người đã đi vào
vinh quang của Cha Người ngay sau khi chết. Ngày Thăng Thiên không phải là một lễ từ
biệt, mà là một lễ mừng sự hiện diện.
Điều mà tác giả muốn kể cho
chúng ta là Đức Giêsu Nadarét, đã bị lính Rôma giết
vào trước lễ Vượt Qua, không hề bỏ
rơi các môn đệ Người mãi mãi. Người đã sống lại và tiếp tục
sống với họ. Cách thức hiện
diện thì khác, nhưng Người không bỏ rơi họ.
Trước khi sống lại, Người
không thể ở với mọi người tại mọi
nơi chốn. Nay đã được
tôn vinh, Người có thể hiện diện ở mọi
nơi. Người có thể ở với
mọi người chúng ta.
* Ra đi thi hành sứ mạng (20)
Tác giả quan tâm khẳng định rằng
trong hoạt động truyền giáo, các tông đồ (và
sau các ông, là Hội Thánh mọi thời) có thể cậy dựa
vào sự hiện diện tuy vô hình nhưng hữu hiệu
của Đức Giêsu đang ở trên thiên quốc với
tất cả quyền năng Kyrios của Người. Ngay
ngày hôm nay, việc loan báo Tin Mừng cũng phải có kèm theo các dấu lạ, nhưng các dấu lạ
này không phải là những mánh lới phù chú ma thuật,
nhưng là những dấu chỉ cho thấy thế giới
mới như các ngôn sứ và tác giả Mc đã từng lon
báo.
+ Kết
luận
Bởi vì các nhà chuyên môn cho rằng Kết
dài của TM Mc là một huấn giáo về Phục Sinh,
chúng ta có thể đối chiếu bản văn với 1
Cr 15,1-11. Cuộc gặp gỡ
với một nhóm môn đệ giới hạn trở thành
nền tảng cho các biến cố liên hệ đến
Đức Giêsu Phục Sinh. Giới hạn về thời
gian giữa cuộc Phục Sinh và Lên Trời đảm bảo
cho tính hợp pháp của các chứng nhân chọn lọc,
nhưng cũng cho thấy cuộc Phục Sinh là như một
kiểu trở lại tạm thời của Đức
Giêsu trong một cuộc sống trần thế. Quan trọng
là đi loan báo Tin Mừng "khắp nơi" và chỉ
khi loan báo như thế, người môn đệ mới
trải nghiệm sự hỗ trợ thường trực
của Đức Chúa được tôn vinh vẫn đang
ở lại trong cộng đoàn mình.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nay đã sống lại, đã
được tôn vinh, Đức Giêsu có thể hiện diện
với từng người trong chúng ta. Có thể
gọi Thăng Thiên là lễ nhân ra nhiều sự hiện
diện của Đức Giêsu. Đây là
ý nghĩa đích thực của Thăng Thiên, nên chúng ta có
thể thực sự hạnh phúc và chan hòa niềm vui.
Đức Giêsu Phục Sinh là Chúa tể
(Kyrios) nhưng vẫn đang "cùng hoạt động"
với các môn đệ Người, với mỗi tín hữu
đang dấn thân cho sứ vụ Người giao phó.
2. Nhìn vào Nhóm môn đệ, chúng ta nhớ
đến tập thể trong đó chúng ta đang hiện
diện: gồm những con người bất toàn, có thất
trung. Nếu hôm nay, chúng ta còn có thể ra đi loan báo Tin Mừng,
là vì Đức Giêsu Phục Sinh đã tha thứ và khôi phục
tư cách cho chúng ta. Sống đời thừa
sai là làm chứng rằng chúng ta đã được ơn
tha thứ và chúng ta đã gặp Đấng Phục Sinh.
3. Địa bàn hoạt động của
người môn đệ là thế giới, "khắp tứ
phương thiên hạ"; đối tượng họ
gặp gỡ là mọi người và từng người
trên đường họ đi, "mọi loài thọ tạo".
Người môn đệ của Đấng Phục Sinh
không được để cho những phân biệt về
màu da, ngôn ngữ, chủng tộc,... làm
cho mình ngần ngại ra đi chia sẻ Tin Mừng cứu
độ.
4. Hôm nay chúng ta đang làm các "dấu
lạ" nào? Phải chăng chúng ta cứ muốn Thiên
Chúa làm các phép lạ, hay là chính chúng ta cũng muốn thực
hiện các "dấu lạ"? "Dấu
lạ" có phải là chính sự hiện diện khiêm tốn,
nhân ái và có khả năng "chữa lành" của chúng
ta? Con người hôm nay có cảm thấy rằng
Đức Giêsu đã lên trời, vẫn đang ở cùng
chúng ta tại đây chăng?
|