Chương 3
Gioan Tẩy Giả
làm được gì cho Đức Giêsu?
(bài 8)
Cựu Linh mục John D. Crossan
Mai Tá lược dịch
Có gì chắc để bảo rằng
Đức Giêsu được ông Gioan tẩy rửa bên sông Gio-đan?
Chẳng có gì chắc chắn về việc Đức Giêsu chấp-nhận tẩy rửa hơn câu truyện ở Kinh Sách vẫn kể, là: Ngài được ông Gioan thanh-tẩy ở sông Giođan, hôm ấy.
Lý do khiến ta lấy làm chắc về chuyện này, là do ở: truyền-thống Đạo Chúa từng tỏ cho thấy có sự lúng-túng tăng đều cường-độ khi kể về “tẩy rửa”.
Quả là, Giáo-hội vẫn lúng-túng khi đề-cập truyền-thống nói về Đức Giêsu chịu thanh-tẩy. Điều lạ kỳ, là: truyền-thống xưa nay cắm rễ nơi lịch-sử rất thực-thụ.
Vậy, sao Giáo-hội lại lúng túng mỗi khi kể việc Đức Giêsu chấp-nhận người khác tẩy rửa Ngài?
Sự thể là, dường như ta vẫn nghĩ: Đức Giêsu, giống mọi người, Ngài chấp-nhận để người khác tẩy rửa là cốt “được thứ tha mọi lỗi/tội”. Ngài làm thế, là để cho ông Gioan được ở vị thế cao-cả hơn Ngài, nên ông mới dám tẩy rửa mọi lỗi tội.
Tác-giả Máccô, dù có kể nhiều về việc này, nhưng ông không đưa ra lời bàn nào để chống-đỡ động-thái ấy. Nhưng, ngay lập tức, với tư cách là người viết truyện ông đã thêm vào cốt truyện này nhiều tình-tiết, như:
tạo giọng nói từ trời cao xác-nhận vị-thế của Đức Giêsu bằng một xác-nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."
Trong khi đó, tác-giả Mátthêu còn đi xa hơn, bằng việc đặt nơi miệng ông Gioan lời phản-kháng quyết liệt, ở câu nói:
“Chính tôi, mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!"
Cuối cùng thì, trình-thuật do tác-giả Gioan viết, ông Gioan đã xác-chứng việc Đức Giêsu là Con Thiên-Chúa mà chẳng cần kể nhiều về việc ông đã đích-thực làm phép rửa cho Đức Chúa.
Từ đó, việc Đức Giêsu chấp-nhận cho ông Gioan tẩy rửa, cũng đã biến-dạng, chỉ để lại mỗi mặc-khải về ý-nghĩa Ngài hiện-hữu với con người, thôi.
Tiến-trình khai-triển truyện kể cho thấy cộng-đoàn tín-hữu thời đó đã thấy khó xử về việc Đức Giêsu cần ông Gioan tha thứ mọi lỗi/tội hoặc, theo cách nào đó, chứng-tỏ Ngài là người ở dưới ông.
Từ ngày Giáo hội tiên-khởi sáng-chế ra truyện kể như thế, mọi người càng lúng túng khi buộc phải tin vào việc tẩy rửa Đức Giêsu như thực-tại lịch-sử.
Mỗi khi nhớ truyện ông Gioan, ý-nghĩ đầu tiên tôi có trong đầu
là câu truyện đáng khiếp-sợ về cô gái nhảy lại dám yêu-cầu vua Hêrôđê
chặt đầu ông Gioan đặt lên đĩa làm quà tặng cô.
Sao người viết lại để ông Gioan kết cục đời mình
cách bất ngờ và hung-tợn như thế, để làm gì?
Câu truyện Kinh thánh quý vị vừa nghe ở đây, là đoạn Tin Mừng do tác-giả Máccô viết ở đoạn 6 câu 17 đến 29, trong đó tác-giả nói về cung-cách vua Hêrôđê Antipas đã cho người bắt giam ông Gioan Tẩy Giả, vì ông dám chỉ-trích vua Hêrôđê cướp vợ của anh mình là Phillíp. Và người đàn-bà trong truyện, đã nổi-giận đến mức xúi con gái nhảy múa trước mặt vua rồi đòi tưởng-thưởng bằng cái đầu của ông Gioan, nữa.
Truyện đây, là yêu-cầu vua giữ lời hứa, nên vua không thể khước-từ hành-động đầy bao-lực, được. Câu truyện bi-ai tuyệt-tác như giai-thoại chỉ là truyện giả-tưởng, thôi.
Thật ra, đó là truyện kể rút từ các giai-thoại hãi-hùng ở Địa Trung Hải vào thế-kỷ trước Công-nguyên, mà mọi người nghe/biết về nghị-sĩ nọ của Đế quốc La Mã thời trước từng bị tống-xuất khỏi nghị-viện, vì ông dám ra lệnh chém đầu một tù-nhân ngay ở buổi tiệc, cốt ve-vãn người tình của mình.
Nói cách khác, đây là truyện truyền-khẩu có ý khuyên mọi người đừng sử-dụng quyền-lực quá mức, thế thôi.
Vậy, vì lý do gì người ta lại bắt giữ và đối xử với ông Gioan như thế?
Sử-gia Do-thái ở thế kỷ đầu, là Josephus có nói về hoạt-động của ông Gioan Tẩy Giả như sau:
“Ai cũng thế, khi tham-gia đoàn người đông đảo tìm đến với ông Gioan vì muốn được nghe ông ta giảng-thuyết theo cách khuấy-động dân tình đến mức-độ khủng-khiếp. Và khi ấy, vua Hêrôđê chợt nghĩ mình nên đề-cao cảnh-giác cách hay nhất để còn tồn-tại.
Khi xưa, tài ăn nói hùng-biện tạo ảnh-hưởng lớn trên con người, khiến người ăn nói như thế có thể dấy lên loại-hình nổi loạn cách nào đó. Bởi làm thế, trông như thể ông Gioan Tẩy Giả đã đạo-diễn hết mọi chuyện.
Thế nên, vua Hêrôđê mới ra tay trước để trừ-khử mọi hậu-hoạ, kẻo ông sẽ kéo theo cuộc nổi dậy, hơn là chờ đợi một chuyển-biến theo hình-thức khác…
Vua Hêrôđê có tính đa-nghi, nên mới ra lệnh trói tay đem ông dẫn-giải cho Machaerus xử tội. Và điều đó, cũng đủ để dẫn ông đến chỗ chết”.
Nên nhớ: những gì ta nghe kể, là sự việc ông Gioan đã khuấy-động dân lành bằng lời giảng-rao khiến nhiều người vẫn theo ông để ông làm được những gì ông từng làm.
Và, giới cầm quyền sợ những lời như thế có thể đưa đến một hình-thức phản-kháng gây bạo loạn. Đương nhiên, là ông Gioan bị coi như người từng đe doạ cách nghiêm-trọng, chứ không chỉ mỗi phẩm-bình hôn-nhân trái luật do Hêrôđê Antipas, sắp xếp.
Hãy nhìn vào sự-kiện Tin Mừng “Quelle” nói về nội-dung lời giảng của ông Gioan Tẩy Giả từng khuấy-động chúng-dân như trình-thuật tác-giả Mátthêu đã từng viết:
“Hỡi cháu con loài rắn hổ! Ai báo cho các ngươi biết mà chạy thoát cơn thịnh-nộ sắp xảy đến?
Hãy thay đường đổi lối, nếu các ngươi quyết đổi ý và đừng nói: “Chúng tôi đã có Abraham là cha đẻ, làm hậu thuẫn.”
Nay, ta báo cho các ngươi biết: Thiên-Chúa vẫn có thể biến các hòn đá này thành con cháu Abraham, được. Ngay bây giờ, búa rìu đang chực sẵn để giáng xuống các cây này. Cây nào không sinh hoa kết trái, phải được chặt bỏ vào lửa…
Nay, ta nhận các ngươi trong nước; nhưng sẽ có Đấng mạnh hơn ta đang đến, mà ta không đáng cởi giây giày cho Ngài. Ngài sẽ tẩy rửa các ngươi bằng thần-tính và lửa ngọn.
Nia sàng Ngài cầm, sẽ dọn sạch sàn đập và gom thóc vào kho chứa của Ngài. Tro trấu, Ngài đốt bỏ bằng thứ lửa không ai dập tắt được”.
Ông ta nói điều đó, là có ý gì?
Đó là điều, ông Gioan nói về một Thiên-Chúa đang đến gần như Đấng xử-phạt, sẽ báo thù. Thiên-Chúa đây, như vị “kiểm lâm” phân-biệt cây xấu loại khỏi cây tốt, hệt như người đập lúa, tách thóc lúa khỏi vỏ. Thị-kiến nhiệt-nồng của ông Gioan, luôn có hai mặt: một mặt tốt và mặt kia lại xấu.
Và, thời-gian lại ngắn-ngủi khiến chúng-dân không đủ giờ để chọn mặt nào, bỏ mặt nào. Tựa như ngôn-sứ thời xưa/cổ, ông Gioan đã loan-báo cho mọi người biết:
Thiên-Chúa đang đến gần để lọc-lựa tình-huống theo lẽ phải, hầu giải-quyết tình-hình quá xấu xa và cứu vớt dân con bị chèn ép, bóc lột.
Nói cách khác, ông Gioan là bậc giảng-thuyết có tính khải-huyền quyết loan-báo Thiên-Chúa là Đấng xử phạt, sẽ báo thù.
Là vị giảng-thuyết có tính Khải-huyền ư? Tính khải-huyền là gì?
“Tính Khải-huyền”, là từ-vựng dẫn ta vào tâm-điểm của luận-bàn về ông Gioan và Đức Giêsu. Nên, ta cần để giờ ra hầu có được hình-ảnh rõ nét về vấn-đề này. Nhưng trước hết, hãy cho phép tôi phác-hoạ đôi chút về bối-cảnh lịch-sử trong đó.
Lâu nay, ta thường hay đề-cập đến phong-trào Công-Giáo Tiến-Hành, khi xưa gọi là “Pax Romana” tức An-bình kiểu La Mã. Nói khác đi, xưa nay ta chấp-nhận sự việc theo kiểu La Mã tức hiểu về mình như đã diễn-tả ở lời thơ trong tác-phẩm nổi tiếng có tựa-đề là “Aeneid” của thi-hào Virgil, người La Mã:
“Hỡi La Mã, ngươi hãy nhớ sức mạnh của ngươi mà trị-vì.
Hỡi dân con mặt đất, nghệ-thuật của các người ở đây là
Làm hoà và áp đặt qui-định về lề-luật,
Hầu giải-thoát kẻ bị chèn-ép và để hạ bệ người kiêu-căng.”
Đó, là tầm nhìn hơi bé nhỏ về quyền-uy/thế-lực của người La Mã. Nhưng, ta hãy suy-nghĩ trong phút chốc xem các qui-định lề-luật ấy có trông giống và cảm-nghiệm như những gì bên dưới, tức lập-trường của kẻ chèn-ép, hay không.
Sử-gia La Mã, ông Tacitus từng viết tiểu-sử về người nhạc-phụ của ông, là Agricola, tức người từng cai-trị nước Anh vào cuối thế-kỷ thứ nhất.
Qua tiểu-sử viết về ông, ta thấy diễn-tả về vị vương/tướng nổi loạn từng nhìn Đế Quốc La Mã theo quan-điểm của riêng mình, như người: “Cưỡng-đoạt, tàn-sát, cướp bóc, những thứ này được họ đặt tên đế-quốc không đúng cách:
họ tàn-phá, quét sạch mọi thứ và gọi đó là An-bình.”
Đấy, là lập-trường nhìn Pax Romana từ bên dưới.
Và từ đó, vấn-đề đặt ra lại hỏi rằng: làm sao người bị chèn-ép/bóc-lột phản-ứng ra sao khi bị đám quân-binh chinh-phục, kinh-tế của họ bị lấn-át/chôn vùi, và họ bị vùi-dập về xã-hội?
Họ tìm ra hai cách để phản-ứng.
Một là, đánh trả lại và cứ thế lập lại nhưng vẫn thất-bại do quyền-uy/thế-lực kịp trấn-át.
Thế kỷ thứ nhất, lại vẫn thấy xảy ra một số vụ quật-khởi do người Do-thái nổi lên chống lại quan-quyền La Mã, là do các thủ-lãnh Thiên-sai thực-hiện. Gọi họ như thế, vì dân thường cứ tưởng các vị được Thiên-Chúa “xức dầu” hầu tái-lập vương-quốc từng hứa cho Đavít và vua quan kế-vị.
Thông thường, thì các lãnh-tụ Thiên-sai lại cứ trông chờ sự trợ giúp từ chốn siêu-nhiên theo cách họ nhớ từ truyền-thống xưa/cũ.
Phản-ứng thứ hai, là của ngôn-sứ mang tính Khải-huyền. Phản-ứng này trông không giống như cuộc đảo-chính quân-sự do con người thực-hiện, nhưng được chính quyền-uy/thế-lực từ Thiên-Chúa loan-báo thời buổi gần kề để hoàn-tất những gì mà lực-lượng người phàm không thực-hiện nổi, như tốt lành toàn-thắng xấu xa/độc hại và rồi thế-giới công-chính tốt lành rày đã đến.
Phản-ứng cuối cùng ở trên, là những gì tôi muốn diễn-tả bằng từ-vựng “niềm tin mang tính khải huyền”.
Đây, trông chờ Thiên-Chúa ra tay chấm-dứt áp-lực của mọi xấu xa/độc hại không thể chấp-nhận được; đồng thời, đem đến cho nhân-loại một thế-giới công-bình, trọn-hảo.
Và, những gì tôi luận-giải đây, cốt bảo rằng:
ông Gioan Tẩy Giả là người đầu tiên trong số các ngôn-sứ khải-huyền xuất-hiện ở xứ-sở người Do-thái cho đến khi nơi này bị tàn-phá hồi thập niên ’60 của thế-kỷ đầu, khi ấy có cuộc nổi dậy chống La Mã, khá kiên-định.
(còn tiếp)
Bài đọc thêm
Chiến dịch phạt Judea
Bài chi tiết: Chiến tranh La Mã-Do Thái lần thứ nhất
Năm 66, người Do Thái ở tỉnh Judea phát động binh biến chống lại Đế quốc La Mã. Thái thú xứ Syria là Cestius Gallus ra quân, bị đánh bại tại trận đánh ở Beth-Horon và buộc phải lui binh khỏi thành Jerusalem.[16] Vị vua chư hầu của La Mã là Agrippa II và em gái là Berenice bỏ chạy khỏi thành phố mà đến Galilee, nhờ đó họ có được bàn đạp đến cầu cứu người La Mã. Để đàn áp cuộc bạo loạn, vua Nero cử Vespasianus làm Tổng chỉ huy của quân Triều đình, kéo cả quân đoàn thứ năm lẫn thứ mười đến vùng Do Thái[17]. Sau đó, ông họp binh với Titus tại Ptolemais cùng với quân đoàn thứ 15. Với 6 vạn chiến binh tinh nhuệ, hào khí của Quân đội La Mã dâng trào, họ quyết tâm vượt qua Galilee và tiến vào thành Jerusalem.[18]
Nhà sử học người La Mã lai Do Thái là Josephus đã chép sử cuộc chiến tranh La Mã - Do Thái lần thứ nhất trong tác phẩm "Những cuộc chiến tranh của người Do thái". Khi quân tinh nhuệ La Mã chiếm lĩnh được Galilee vào năm 67, Josephus làm chỉ huy đạo quân Do Thái ở thành phố Jotapata. Cuộc công thành Jerusalem kéo dài đến 47 ngày, và quân La Mã đại thắng tràn vào thành phố ấy, người ta ước tính có khoảng 4 vạn quân Do Thái tử vong, còn số quân kháng chiến Do Thái còn lại thì phải tự sát.[19]
Josephus ra hàng Vespasianus, bị quân La Mã bắt làm tù binh và cung cấp cho người La Mã những tin tức quan trọng về các cuộc nổi dậy đang diễn ra.[20] Cho tới năm 68, những chiến binh dũng mãnh La Mã đã chiếm được toàn bộ Judea và bờ biển phía Bắc của tỉnh này, với chiến thắng quyết định tại Taricheae và Gamala - trong trận thắng vang lừng này Titus đã chứng minh ông là một vị tướng xuất sắc[14][21]
Năm tứ đế
Bản đồ Đế quốc La Mã trong năm 69. Khu vực màu lam là các tỉnh dưới thời vua Vespasianus và quan Tổng trấn Gaius Licinius Mucianus.
Pháo đài cuối cùng và quan trọng nhất của cuộc kháng chiến của người Do Thái là Jerusalem. Tuy nhiên, chiến dịch đã dừng bất ngờ khi tin tức về cái chết của Nero đến nơi.[22] Gần như đồng thời, Thượng viện La Mã đã tuyên bố Galba, sau đó là thống đốc của Hispania, như là hoàng đế của La Mã. Vespasianus đã quyết định chờ đợi và gửi Titus đến chào vị nguyên thủ mới.[23] Trước khi đến Ý, Titus nhận được tin báo rằng Galba đã bị giết và thay thế bằng Otho, thống đốc Lusitania, và rằng Vitellius và quân đội của mình ở Germania đã được chuẩn bị tiến vào thủ đô, ý định lật đổ Otho. Không muốn bị nguy cơ biến thành con tin bởi bên này hay bên khác, ông từ bỏ cuộc hành trình đến thành La Mã và tái gia nhập cha ông ở Judaea.[24] Trong khi đó, Otho đã bị đánh bại trong trận Bedriacum lần I,và buộc phải tự sát.[25] Khi tin tức lan truyền khắp quân đội tại Judae và Ai cập,họ đã nắm lấy quyền lãnh đạo và tuyên bố Vespasianus là hoàng đế ngày 01 tháng 7, năm 69[26].Vespasianus chấp nhận., và thông qua đàm phán bởi Titus, thống đốc Syria,Gaius Licinius Mucianus,đã ủng hộ ông.[27] Một lực lượng tinh nhuệ rút ra từ những quân đoàn ở Judaea và Syria hành quân về kinh đô La Mã dưới sự chỉ huy của Mucianus, trong khi Vespasianus tự đi đến Alexandria, để Titus chỉ huy việc dập tắt cuộc nổi loạn tại Judea.[28][29] Đến cuối năm 69,lực lượng của Vitellius đã bị đánh bại, và Vespasianus đã chính thức được tuyên bố là Hoàng đế bởi viện nguyên lão ngày 21 tháng 12, do đó kết thúc Năm của bốn hoàng đế.[30]
Vây hãm Jerusalem
Destruction of the Temple of Jerusalem, Francesco Hayez, oil on canvas, 1867. Depicting the destruction and looting of the Second Temple by the Roman army.
Trong khi đó những người Do Thái lại vướng vào những xung đột trong nội bộ của mình, sự chia tách của họ trong thành phố giữa hai phe,phe Sicarii do Simon Bar Giora, và Zealot do John của Gischala lãnh đạo.[31] Titus nắm lấy cơ hội để bắt đầu các cuộc tấn công vào Jerusalem. Quân đội La Mã đã được bổ sung thêm quân đoàn 12 mà trước đây bị đánh bại dưới quyền Cestius Gallus, và từ Alexandria Vespasian gửi Tiberius Julius Alexander, thống đốc Ai cập,đến phục vụ dưới quyền của Titus.[32] Titus bao vây thành phố, với ba quân đoàn (V,XII và XV) về phía tây và một (X) ở trên núi Olives về phía đông. Ông đã gây áp lực về nguồn cung cấp thực phẩm và nước của người dân bằng cách cho phép khách hành hương vào thành phố để chào mừng lễ Vượt qua, và sau đó từ chối cho họ đi ra.Người Do thái liên tục tập kích quân La mã nhưng kết quả là bị Titus bắt sống.[33]
Sau khi nỗ lực của Josephus để thương lượng một sự đầu hàng đã thất bại, người La Mã nhanh chóng chuyển sang thái độ thù địch.Họ nhanh chóng tấn công những bức tường thứ nhất và thứ 2 của thành phố.[34] Để đe dọa sức đề kháng, Titus đã ra lệnh đóng đinh những kẻ đào ngũ người Do thái trên các bức tường của thành phố.[35] Vào thời gian này người Do Thái đã bị kiệt sức bởi nạn đói.[36]
Người La Mã cuối cùng đã chiếm được Pháo đài Antonia và bắt đầu một cuộc tấn công vào cổng trước của đền thờ.[37] Theo Josephus, Titus đã ra lệnh rằng không được phá hủy đền thờ vì đã hứa với công chúa Do Thái là Berenice[38]. Ngày 23 tháng 7, bó đuốc trong tay một người lính đã gây ra đám cháy dưới tam quan của ngôi đền,bên cạnh chỗ thiêng liêng nhất[39]. Nhà chép sử Ki tô giáo sau này,Sulpicius Severus, có thể đã sử dụng một phần trong cuốn Lịch sử của Tacitus,đã ghi rằng Titus ra lệnh bảo vệ đền thờ[40]. Dù vậy,đền thờ vẫn bị phá hủy,của cải bị quân La Mã cướp,vơ vét hết [41].Sau đó,các binh sĩ của Titus tung hô ông là hoàng đế để ca ngợi chiến thắng. Josephus tuyên bố rằng 1,1 triệu người đã thiệt mạng trong cuộc bao vây, trong đó phần lớn là người Do Thái [42].97000 người bị bắt làm nô lệ, bao gồm Simon Bar Giora và John của Gischala.Simon Bar Giora bị quân La Mã đánh đập tàn ác nên đã chết trên đường đến thành La Mã.[42] Nhiều người đã bỏ trốn đến các khu vực xung quanh Địa Trung Hải.[43] Titus từ chối chấp nhận một vòng hoa chiến thắng.
Trong cuộc chiến tranh Do Thái, Titus đã bắt đầu một mối tình với Berenice, em gái của Agrippa II[24] Phe Herod đã hợp tác với những người La Mã trong cuộc nổi loạn, và Berenice tự mình đã hỗ trợ Vespasianus trong chiến dịch của mình để trở thành hoàng đế.[49] Trong năm 75, bà trở về cùng Titus và công khai sống với ông trong cung điện như là vợ hứa hôn của mình. Người La Mã đã cảnh giác các nữ hoàng Phương Đông và từ chối các mối quan hệ của họ.[50]
|