Dấu chân của Thiên Chúa – R.
Veritas
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhiều năm trước
đây có một nhà bác học vượt qua sa
mạc với mấy người Ả Rập thông thạo
dẫn đường. Nhà bác học để ý thấy cứ
chiều đến, khi hoàng hôn sắp lặn sau bãi cát mênh
mông vô tận, thì những người Ả Rập cùng
đi đường đều dừng lại trải
chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời
chắp tay cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
- Các ông làm gì vậy?
Họ thản nhiên trả
lời không chút do dự: Chúng tôi sấp mình thờ lạy
và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của chúng tôi.
Nhà bác học hỏi lại
một cách mỉa mai:
- Vậy chứ các ông
đã thấy Chúa bao giờ chưa? Có sờ tay
đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã
nghe thấy tiếng của Ngài khi nào chưa?
Hướng dẫn viên
Ả Rập mỉm cười đáp lại:
- Chưa, thực ra
chúng tôi chưa hề mắt thấy tai
nghe tiếng Chúa bao giờ cả?
Nhà bác học sửng sốt
lên giọng:
- Các ông thực là những
người điên, các ông mù quáng sấp mình thờ lạy
một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc tai chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng
dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không đáp lại
lời nào hết.
Sáng hôm sau, mặt trời
chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy, bước
ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:
- Ông hãy nhìn xem, chắc
chắn là tối hôm qua có con lạc đà nào đã đi
qua đây rồi.
Một tia
sáng đầy hy vọng và vui mừng loé lên trong ánh mắt
hướng dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học
những câu hỏi liên tiếp:
- Vậy thì chắc là
ông đã thấy lạc đà đi ngang qua đây tối
hôm qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ
tới lông nó đang lúc ông ngủ chăng?
Nhà bác học thật
thà đáp lại:
- Không, tối hôm qua tôi
ngủ ngon, đâu có thấy lạc đà và cũng không sờ
tới lông nó.
Hướng dẫn viên
nói:
- Vậy thì ông cũng
chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết là lạc
đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi ông lại
nói là mắt ông không thấy, tai ông
cũng không nghe tiếng chân lạc đà.
Nhà bác học
cương quyết cãi lại:
- Nhưng đây là bằng
chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân lạc
đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?
Cùng lúc đó, mặt trời
từ từ ló rạng kéo dài những tia
sáng rực rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn
viên Ả Rập giang tay trịnh trọng
tuyên bố:
- Này ông bạn của
tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là
dấu chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa mà chúng tôi tôn thờ.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu Phục Sinh đã nói với ông Tôma: “Phúc cho ai
không thấy mà tin”. Thời đại chúng ta
đang sống là thời đại khoa học. Đời sống được xây dựng trên
khoa học, được hướng dẫn bởi khoa
học, được đánh giá bằng khoa học.
Cái gì cũng phải có khoa học. Mà khoa
học thì phải chính xác, rõ ràng, có thể phân tích, mổ xẻ
và kiểm nghiệm được. Tinh thần
khoa học thực nghiệm được áp dụng vào mọi
lãnh vực, kể cả tôn giáo. Người
ta nhân danh khoa học mà phê phán tôn giáo. Cái gì có tính khoa học,
kiểm nghiệm được mới đáng tin, ngoài ra
là vấn đề tình cảm, cuồng tín, mê tín. Thái độ phê phán và não trạng thực nghiệm
của con người thời nay không khác bao nhiêu so với
tâm tính thực nghiệm và cứng rắn của Tông đồ
Tôma thời xưa trong câu truyện Tin Mừng hôm nay.
Nghe các bạn kể lại: “Chúng tôi đã xem thấy
Chúa Phục Sinh”, ông Tôma vẫn không tin. Ông muốn
dựa vào kinh nghiệm giác quan, chứ không phải dựa
trên các chứng từ. Chúa Giêsu đã sẵn sàng
đáp ứng và thoả mạn nguyện vọng của
ông. Ngài đã hiện ra và bảo ông: “Tôma, hãy đặt
ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy… Hãy đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh
sườn Thầy”. Đồng thời Chúa Giêsu
cũng mời gọi ông: “Đứng cứng lòng tin nữa,
nhưng hãy tin…”. Không những
tin vì đã thấy mà còn phải tiến đến chỗ
tin cho dù không được thấy. Dựa
vào Lời Chúa, ông Tôma đã tin mà không cần kiểm chứng
nữa. Lúc ấy, Chúa Giêsu mới mạc khải chân
lý này: “Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”.
Thưa anh chị em,
“Ai không thấy mà tin mới là
người có phúc”.
Lời này như được ngỏ với chúng ta, những
người tín hữu Kitô hôm nay mà lòng tin dựa trên chứng
từ của các Tông đồ, chứ không dựa vào kinh
nghiệm giác quan: sống cách xa biến cố Chúa Phục
Sinh gần 2000 năm, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận
đức tin. Tin nơi Thánh Kinh, tin nơi
Giáo Hội, những bảo chứng đáng tin nhất,
không còn cách nào khác. Với ơn đức
tin, chúng ta có thể gặp Chúa và tiếp cận với
Ngài. Đó là một hạnh phúc thật
sự. Theo ý hướng đó, lời tuyên xưng của
ông Tôma cũng phải là lời tuyên xưng đức tin của
Hội Thánh, của mỗi người ca vào Đức
Kitô ”Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”.
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh thực sự
đem lại cho người Kitô hữu một niềm hân
hoan khôn tả, như Thánh Phêrô đã xác quyết: “Dù bây giờ
anh em không thấy Ngài, nhưng anh em tin, nên anh em sẽ
được vui mừng khôn tả, vì đã nắm chắc
thành quả của đức tin anh em, là ơn cứu
độ” (1Pr 1,9). Niềm
hân hoan đó không chỉ lắng sâu trong tâm hồn, mà còn
tràn ra bên ngoài trong cuộc đời các Kitô hữu.
Điển hình là niềm vui trong cuộc sống của cộng
đoàn Kitô hữu tiên khởi: “Họ chuyên cần nghe các
Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau
trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ
Bánh và cầu nguyện không ngừng… Tất cả các tín hữu,
đều một lòng đoàn kết và để mọi sự
làm của chung… Họ ca tụng
Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến
thương. Và số người cứu độ
gia nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, nếu
Giáo Hội hôm nay có được cuộc sống như
các tín hữu tiên khởi thì Giáo Hội lo sợ gì trước
những tra vấn của khoa học. Chẳng những thế, Giáo Hội
còn có khả năng cống hiến cho thời đại
khoa học một lời chứng sống động, hùng
hồn về hoạt động của Đấng Phục
Sinh trong lịch sử, ngang qua cuộc sống dấn thân
của các Kitô hữu để đem lại tình yêu và sự
sống cho anh em đồng loại.
Con đường của lòng tin chúng ta hôm nay là con
đường của lòng mến. Càng yêu mến
nhiều, càng tin vững chắc. Và những
người có lòng mến Chúa thường không cần phải
tin, mà họ thấy. Thánh Tôma tiến sĩ cầu
nguyện: “Chúa ơi, con không xin được xem
thương tích Chúa như ông Tôma, nhưng con tuyên xưng
Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông
Chúa và yêu mến Chúa hơn nữa”. Và có lẽ
đó cũng là lời cầu xin của mỗi người
tín hữu chúng ta, trong cuộc hành trình đức tin trên trần
thế này cho đến ngày được xuất hiện
trong vinh quang với Đấng Phục Sinh.
|