Chúa Giêsu lên Giêrusalem
(Fx. Phạm Đình
Phước – viết dựa theo
Bênêđictô XVI, Gesù di Nazaret. Dall'ingresso in Gerusalem fino alla
risurrezione, LEV, Città del Vaticano 2011, pp.11-21)
Tin Mừng thuật
lại cho chúng ta rằng vào ngày lễ Vượt Qua, Chúa
Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương diện địa
lý, có thể nói rằng chuyến đi này là một hành
trình đi lên theo nghĩa đen. Quả
vậy, biển Galilê thấp hơn mặt nước
biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn mực nước
biển 460 mét nữa, như thế hành trình của Chúa Giêsu
có độ cao gần 760 mét.
Đối với Chúa
Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên
Giêrusalem là "thánh giá", nghĩa là trao ban chính bản
thân mình cho nhân loại, "yêu mến cho đến tận
cùng" (Ga 13,1). Nhưng mục đích gần nhất
của hành trình này là tiến lên Đền Thánh Giêrusalem, và
dự lễ Vượt Qua của người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu khởi hành cùng
với nhóm Mười Hai, nhưng dần dần trở
thành một đoàn người hành hương đông
đảo. Mátthêu và Máccô thuật lại cho chúng ta
rằng có "đoàn lũ đông đảo" theo Chúa Giêsu từ thành Giêricô.
Bên vệ
đường của cuộc hành trình có một
người mù ăn xin tên là Bartimêô. Anh
biết Chúa Giêsu trong đoàn hành hương, nên anh xin Chúa
thương xót và chữa lành anh: "Lạy Thầy, xin
cho con được thấy", và Chúa Giêsu đã chữa
lành anh. Khi được chữa lành, Bartimêô gia
nhập đoàn hành hương tiến lên Giêrusalem (Mc 10,
48-52).
Từ làng Betphagiê và
Bêtania khi đến núi Cây Dầu nơi mọi
người đang đón chờ Đấng Messia, Chúa
Giêsu sai hai môn đệ và bảo hai ông:"Các anh đi vào
làng trước mặt kia, và sẽ
thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn
đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh
cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời
là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi
lại ngay" (Mt 21, 2-3). Thánh Máccô thêm một chi
tiết thú vị là “con lừa chưa ai từng cỡi”
(Mc 11,2). Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền.
Sự việc này xảy ra để ứng nghiệm
lời tiên tri Da-ca-ri-a: “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa
Đức Vua của ngươi đang đến với
ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa”
(Dcr 12, 15). Việc Chúa Giêsu tiến vào thành “trên lưng
lừa” cho thấy Chúa Giêsu diễn tả vương
quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm
tốn và trong bình an của Thiên Chúa.
Việc
“mặc áo choàng” mang ý nghĩa vương đế trong
truyền thống Israel
(x. 2 V 9, 13). Các môn đệ đã biểu
lộ hành động tôn vinh Chúa Giêsu “lên ngôi”. Đông đảo khách hành hương thấy
nhiệt tâm của các môn đệ cũng trải áo choàng
xuống trải xuống mặt đường, chặt
nhành chặt lá mà rải trên lối đi. Dân chúng,
người đi trước, kẻ theo
sau, reo hò vang dậy và tung hô: “Osanna, chúc tụng Đấng
nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11, 9; Tv 118, 25).
“Osanna” có nghĩa là “xin cứu giúp chúng con”. Vào ngày thứ bảy của dịp Lễ
Lều, vị tư tế đi xung quanh xông hương
bàn thờ 7 lần và lặng lẽ lập lại lời
đó để cầu xin mưa thuận gió hòa. Vào
các dịp lễ, dân chúng hành hương lên đền
thờ Giê-ru-sa-lem, tay vừa phất các
cành lá linh thánh vừa hát các câu tung hô. Khi các
dịp lễ như thế biến thành những lễ
hội của niềm vui, thì lời cầu xin cũng
trở thành lời reo vui phấn khích. Trong
bối cảnh ngày lễ, khách hành hương diễn
tả niềm vui, niềm hy vọng là Đấng Messia
sẽ thiết lập vương quyền trên Israel.
“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”
là lời đón chào khách hành hương ngay cửa thành
Thánh hay ngay cửa Đền Thờ. Nhưng câu này còn mang
một ý nghĩa khác nữa như trong thánh vịnh 118
"Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em", là lời
cầu chúc của các thượng tế dành cho khách hành
hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem. Ở đây,
lời chúc lành cho khách hành hương trở thành lời
ngợi khen Chúa Giêsu, Đấng nhân danh Chúa mà đến:
Chúa Giêsu được chào đón như Đấng dân
đang mong chờ và Đấng được loan báo qua
mọi lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin
Mừng Nhất Lãm thuật lại việc Chúa Giêsu
được tôn vinh ngay của vào thành Giêrusalem; thánh
Mát-thêu còn ghi lại rằng "khi Đức Giêsu vào
Giêrusalem, cả thành náo động xôn xao". Các thánh
sử cũng cho thấy rằng những kẻ tôn vinh Chúa
không phải là những người dân trong thành, mà là
những người hành hương, những người
cùng đồng hành với Chúa Giêsu; họ cùng với Chúa
bước vào thánh thánh Giêrusalem.
Khi vào
đền thánh, ngay sau việc thanh tẩy đền
thờ, thánh sử Mátthêu tường thuật thêm hai chi
tiết khác. Trước hết, Chúa
Giêsu nói về đền thờ là ngôi nhà cầu nguyện
cho mọi dân tộc và “có những kẻ mù loà và què
quặt đến với Ngài trong đền thờ.
Ngài đã chữa họ lành”. Chúa Giêsu tỏ hiện như một Đấng
yêu thương và quyền năng của Ngài là quyền
năng tình yêu. Như thế, Ngài dạy các kitô
hữu về sự thờ phượng Thiên Chúa đích
thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn
sóc. Hơn nữa, Mat-thêu còn nói rằng các trẻ em reo hò
trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành
hương trong đền thờ: “Hoan hô Con Vua Đavít”
(Mt 21, 15). Để vào Nước Thiên Chúa thì
một trong những điều cốt yếu là phải
trở nên như trẻ nhỏ. Chính Chúa Giêsu,
Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã
làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp
đỡ con người, đưa họ về với
Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, thì cần
thiết phải từ bỏ sự kiêu hãnh và để
gặp Thiên Chúa thì cần phải nhìn bằng con tim, phải học để nhìn với
một tâm hồn trẻ thơ và với một tâm hồn
tươi trẻ.
Thánh thi
Benedictus được đưa vào phụng vụ như
muốn nói rằng đối với Giáo Hội, ngày Chúa
Nhật Lễ Lá không thuộc về quá khứ. Như ngày xưa Chúa Giêsu cỡi lừa
bước vào thánh thánh, Giáo Hội đón nhận Chúa Giêsu
đang đến với chúng ta cách khiêm tốn trong bánh
rượu. Giáo Hội chào đón Chúa
Giêsu trong bí tích Thánh Thể đang đến và ngự
giữa cộng đoàn.
Mỗi Kitô hữu hãy
đón chào Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể như
Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và đón
chào Đấng hiện diện luôn mãi và Đấng sẽ
ngự đến trong vinh quang. Như khách
hành hương vào đến thánh Giê-ru-sa-lem, mỗi
một kitô hữu được mời gọi gặp
Chúa trong Thánh Thể.
Với
lễ Lá, các Kitô hữu đang bước vào tuần thánh,
với cao điểm của phụng vụ Kitô giáo là Tam
Nhật Thánh. Phụng vụ trong những ngày này
thuật lại sự thương khó, khổ nạn và
phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu
độ cho nhân loại, kể cả những
người, cho dẫu không biết Thiên Chúa, sống
với lòng ngay thẳng và chân thật.
Con người
được dựng nên để sống và sống
để yêu mến: yêu mến Chúa và để yêu
thương nhau. Thiên Chúa là tình yêu, đã sáng tạo muôn
loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con
người. Nhập Thể và Cứu
Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu
đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha để đem lại
yêu thương cho con người. Thiên Chúa cho con
người được thông phần cuộc sống
của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và
là Sự Sống”, để cho họ “được
sống dồi dào” và sống viên mãn trong tình yêu.
|