Tình
thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
(Suy
niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên)
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tình
thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
Con người thường đặt
câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: “Tại sao một
Thiên Chúa tốt lành lại để con người
phải chịu những hậu quả thảm khốc
như thế?” Nếu không tìm được câu trả
lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào Thiên
Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không
có lòng thương xót.
Các Bài Đọc hôm nay cung
cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác giả Sách
Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn
tiến trình giáo dục con người của Thiên Chúa. Hình
phạt chỉ là cách cuối cùng để con người
nhận ra lầm lỗi của mình và để ngăn
ngừa con người khỏi hư mất đời
đời. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô xác quyết Thiên
Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua
biến cố Đức Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người
Con Một để chúng ta có thể đạt
được Ơn Cứu Độ là sự sống
muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình.
Mục đích của Ngài không là để kết án thế gian, nhưng để thế gian
nhờ Người Con mà được Ơn Cứu
Độ.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.
1.1/
Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
-
Con
người phạm nhiều tội và nhiều lần.
Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các tội:
“Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân
chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa,
học theo mọi thói ghê tởm của
chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được
thánh hiến ở Jerusalem ra ô uế.”
-
Sai
nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người
đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề
Luật, họ đã biết những gì họ phải làm
và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ
cẩn thận các Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình
thương, “Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ
giả của Người đến cảnh cáo họ, vì
Người hằng thương xót dân và thánh điện
của Người. Nhưng họ nhạo cười các
sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời
Người và chế giễu các ngôn sứ của
Người.”
1.2/
Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
-
Sau
khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật
và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp không chịu nghe
lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi
để sửa phạt dân: “Đức Chúa để cho
vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm
giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ,
chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu
nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc
bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên
Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem, phóng hoả đốt các lâu đài
trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá.
Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì
vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua
và con cháu vua, cho đến thời vương quốc
Ba-tư ngự trị.”
-
Mục
đích của việc sửa phạt là để cho dân
nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó,
chứ không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà
để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa phạt,
dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi
Thiên Chúa sửa phạt, một số sẽ nhận ra
tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình
trở lại với Ngài, để được Ngài xót
thương. Như vậy, hình phạt cần thiết
để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để ngăn ngừa dân
khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái
chết.
1.3/
Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
-
Thiên
Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra
tội của họ và thực lòng ăn năn
thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi
hình phạt họ đang chịu. Ngài xót thương vì
Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình
phải hư mất. Ngài hoàn lại tất cả
những gì con cái Israel đã mất: quê hương,
Đền Thờ, và Lời Hứa với các
Tổ-phụ.
-
Thiên
Chúa có toàn quyền trên tất cả quyền lực
của thế gian: Điều này chứng tỏ qua các
sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi
để sửa phạt dân; khi dùng xong, Ngài bẻ gãy
chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua
Ba-tư. Chính Vua này lại trở thành khí cụ Chúa dùng
để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái
thiết lại quốc gia và Đền Thờ.
Điều này đã được Thiên Chúa báo
trước qua lời ngôn sứ Jeremiah; để khi
xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện
tình cờ, nhưng đã được xếp đặt
trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
2/
Bài đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng
ta trong Đức Kitô Giêsu.
2.1/
Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
-
Đức
Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa
lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm
con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô
đến để mời gọi con người quay
về với tình yêu Thiên Chúa.
-
Ngài
nâng cao địa vị và phẩm giá con người:
“Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu thương họ.” Tội
lỗi làm mất đi các đặc quyền con
người được hưởng như một
người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến
để phục hồi cho con người quyền làm
con. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ
ràng điều này.
-
Ngài
hướng lòng con người lên những điều
tốt lành thánh thiện và giải thóat con người
khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người
cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa.
-
Ngài
cứu con người khỏi chết và cho con
người được cùng sống lại với
Đức Kitô. Chính do Đức Kitô mà con người
đạt được đích điểm Thiên Chúa
đã phác họa cho con người.
2.2/
Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
-
Hoàn
toàn là do bởi ân sủng của Thiên
Chúa: Con người không thể làm gì để đạt
Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều
phạm tội, và như một hậu quả, tất
cả đều đáng phải chết. Nhưng tại
sao con người không phải chết là hoàn toàn do lòng
thương xót của Thiên Chúa: Ngài cho Người Con
Một của mình để chết thay cho nhân lọai.
Điều Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào
Người Con; và qua niềm tin này, con người sẽ
nhận được Ơn Cứu Độ: “Quả
vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em
được cứu độ: đây không phải
bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa;
cũng không phải bởi việc anh em làm, để không
ai có thể hãnh diện.”
-
Chúng
ta là tác phẩm của Thiên Chúa: “Chúng ta được
dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà
thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã
chuẩn bị cho chúng ta.” Như nguyện ước
của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn
con nên người và đạt được mọi
kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp
con đạt được những kỳ vọng này,
họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng
thế, Ngài cho con người ra đời là muốn tất
cả đạt tới Ơn Cứu Độ.
Để giúp con người đạt đích, Ngài
sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi
chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
3/
Phúc Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con
Một Người.
3.1/
Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người
được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng biến cố “rắn
lửa cắn dân chết” trong Sách Dân Số, để loan
báo trước về Cuộc Khổ Nạn của
Người:
-
Như
nọc độc của rắn làm dân phải chết,
nọc độc của tội cũng làm dân phải
chết (Num 21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con
rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng
sẽ phải được giương cao như
vậy, để cứu chuộc con người.
-
Điều
kiện để được chữa khỏi nọc
độc của rắn là phải nhìn lên con rắn
đồng trong sa mạc; điều
kiện để được sống muôn đời là
nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào Đức Kitô. Khi nhìn
lên Thập Giá, con người phải hiểu được
tình thương Thiên Chúa dành cho con người; khi Ngài cho
Người Con Một là Ngài cho chính Ngài: “Thiên Chúa yêu
thế gian đến nỗi đã ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn
đời.”
3.2/
Thiên Chúa không kết án thế gian, con
người lên án chính mình:
-
Tình
thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục
đích của việc Chúa Cha sai Người Con tới là
để gánh tội và chết cho con người: “Quả
vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến
thế gian, không phải để lên án thế gian,
nhưng là để thế gian, nhờ Con của
Người, mà được cứu độ.”
-
Con
người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên
Chúa, và không tin vào Đức Kitô: “Ai tin vào Con của
Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì
bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con
Một Thiên Chúa.”
3.3/
Bản án của con người: “Và đây là bản án: ánh sáng đã
đến thế gian, nhưng người ta đã
chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm
đều xấu xa.”
-
Ánh
sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn
Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi Đức Kitô
đến, Ngài buộc con người phải làm quyết
định: tin hay không tin vào Ngài. Bóng tối là tội
lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
-
Con
người có tự do lựa chọn: Họ có thể
chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối, chọn Thiên
Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng
nào, con người phải chấp nhận hậu quả
của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người
tới Ơn Cứu Độ; chọn bóng tối sẽ
làm cho con người phải chết muôn đời. Con
người lên án chính mình bằng ngoan
cố ở trong bóng tối.
-
Theo
Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ
phán xét chính mình. Con người cũng chẳng cần
phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người
lựa chọn ở trong bóng tối là con người tuyên
án cho chính mình (Realized eschatology, “phán xét
ngay hiện tại” là thế). Phán xét tương lại
hoàn toàn tùy thuộc vào phán xét hiện tại.
-
Kẻ
làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ
nếu ra ngòai ánh sáng, các tội lỗi của mình sẽ
bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận
ra vì đa số các tội ác xảy ra ban đêm và những
chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin
Mừng hôm nay: “Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét
ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc
họ làm khỏi bị chê trách.”
-
Ngược
lại, người làm điều chân thật lại thích
ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm do bóng
tối mang lại: “Nhưng kẻ sống theo
sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên
hạ thấy rõ: các việc của người ấy
đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Tiến
trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra
tiến trình giáo dục của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ
là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình giáo
dục.
-
Ngay
cả khi xử dụng hình phạt, tình thương
của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không có hình
phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi
lầm của mình.
-
Cần
nhìn toàn thể Kế Họach Cứu Độ của
Thiên Chúa trước khi con người có thể phê bình cách
thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến
cố, con người dễ mất niềm tin nơi Ngài.
|