Một tình
yêu không thể tin được
(Chú
giải của Lm. Phanxicô X. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh và Bố cục
Sách
các Dấu lạ của TM IV (2,1–12,50) nói
về các dấu lạ lồng vào một cái khung thời
gian nhằm giới thiệu chân tính của Đức
Giêsu, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Cuộc đối
thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô (3,1-21) nằm trong phần đầu (2,1–4,54),
phần này có bố cục như sau:
A
(2,1-11.12): Khởi đầu các dấu
lạ tại Cana miền Galilê: biến nước thành
rượu (c. 12 là câu chuyển tiếp [nói về thời
gian và không gian]sang đoạn sau).
B
(2,13-22.23-25 +): Thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem và
đối thoại với người Do-thái về
Đền Thờ mới (cc. 23-25 là những câu “làm
cầu” nối 2,13-22 với 3,1-21).
C
(2,23-25; 3,1-21): Đối thoại
với Nicôđêmô về việc sinh bởi trên cao và
diễn từ về việc có sự sống vĩnh
cửu.
C’(3,22-36;
4,1-3 +): Đối thoại của Gioan Tẩy Giả
với các môn đệ ông về chú rể đến
từ trên cao và diễn từ về sự sống
(Đoạn 3,22-24 là dẫn nhập chuyển tiếp.
Đoạn 4,1-3 là những câu “làm
cầu” nối [vì kết] 3,22-36 với [vì chuẩn bị
cho] 4,4-42; đoạn này minh nhiên quy chiếu về 3,22-23 và
hướng tới 4,43-45).
B’(4,1-3.4-42):
Đối thoại với người phụ nữ Samari
về việc có nước hằng sống và việc
phụng tự đích thật.
A’(4,43-45.46-54):
Dấu lạ thứ hai tại Cana miền Galilê: chữa con trai một quan chức nhà
vua (cc. 43-45 là đoạn chuyển tiếp [nói về
thời gian và không gian] từ 4,4-42 sang 4,46-54).
Chúng
ta thử xác định cấu trúc của phân đoạn
3,1-21 (nhờ đó, có thể biết
vị trí của cc. 14-21). Về hình thức
bản văn, chúng ta ghi nhận rằng Nicôđêmô có nói ba
lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba
câu nói của ông, Đức Giêsu trả lời bằng công
thức long trọng, “Thật, tôi bảo thật ông” (cc. 3,
5 và 11; đi trước c. 11 là một nhận xét
đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba
câu trả lời của Đức Giêsu cứ mỗi
lần mỗi dài hơn. Về phương diện
tư tưởng, có những liên hệ đến Ba Ngôi:
các lời Đức Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ
đến vai trò của Thần Khí; những lời ở
cc. 11-15 liên hệ đến Con Người; những
lời ở cc. 16-21 liên hệ đến Thiên Chúa Cha.
Nếu tổng hợp hai phương diện hình thức
và tư tưởng, chúng ta có thể xác định bố
cục của 3,1-21 như sau:
* Câu 3,1: Dẫn
nhập cho toàn bài (nối 2,23-25 với ch. 3).
1. Phân đoạn 1 (cc. 2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ
bởi Thần Khí là điều cần thiết để
được đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra
bởi tự nhiên thì không đủ.
(a)
cc. 2-3: Câu hỏi và câu trả lời đầu tiên: sự
kiện sinh ra bởi trên cao.
(b)
cc. 4-8: Câu hỏi và câu trả lời thứ hai: cách
thức sinh ra – nhờ bởi Thần Khí.
2. Phân đoạn 2 (cc. 9-21): Tất cả những
điều này chỉ có thể có được khi Con
đã lên cùng Cha, và điều này chỉ được ban
cho những ai tin vào Đức Giêsu.
-
cc. 9-10: Câu hỏi và câu trả lời
thứ ba dẫn nhập vào toàn phân đoạn.
(a)
cc. 11-15: Con phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí).
(b)
cc. 16-21: Tin vào Đức Giêsu là điều cần
thiết để được hưởng nhờ ân huệ này.
Theo
R.E. Brown, tác giả TM IV đã để lại một vài
dấu chỉ giúp khám phá ra lược đồ ngài theo để tổ chức bản văn.
Phân
đoạn 1 bắt đầu với lời khẳng
định của Nicôđêmô: “Chúng tôi biết Thầy là
một vị tôn sư” (c. 2); câu này được
đặt trong thế cân bằng với mở đầu
của Phân đoạn 2 với lời Đức Giêsu, “Ông
là bậc thầy (tôn sư) trong dân Israel, … chúng tôi nói những điều chúng tôi
biết” (cc. 10-11).
Ngoài
cách bố cục thành hai phân đoạn, dường
như toàn bài được viết theo
kỹ thuật đóng khung (bằng các ý tưởng cùng
một trường ngữ nghĩa):
(a)
Bản văn bắt đầu với việc Nicôđêmô
đến với Đức Giêsu ban đêm; bản văn
kết thúc với đề tài người ta phải
bỏ bóng tối để đến với ánh sáng.
(b)
Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại
bằng cách chào Đức Giêsu là vị tôn sư từ
Thiên Chúa mà đến; phần cuối của bản
văn cho thấy rằng Đức Giêsu là Con Một Thiên
Chúa (c. 16) mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17)
như là ánh sáng cho thế gian (c. 19).
(c)
Nếu chúng ta coi 2,23-25 như là phần mở đưa
vào “xen” Nicôđêmô, chúng ta lại có một bản văn
đóng khung khác: ở 2,23, chúng ta đã nghe nói đến
những người “đã tin vào danh Người”,
nhưng niềm tin của họ không thỏa đáng vì
họ không đến để thấy Người là ai;
ở 3,18, chúng ta thấy lời Đức Giêsu nhấn
mạnh rằng ơn cứu độ chỉ
được ban cho những ai “tin vào danh của Con
Một Thiên Chúa”.
2.- Vài điểm chú giải
-
Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt.
-
ai tin vào Người thì được
sống muôn đời
(15): Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con
rắn đó, sẽ được sống”.
-
Thiên Chúa yêu thế gian
(16): Động từ agapaô ở thì quá khứ aorist
(êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu
thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể
nói ở đây chúng ta có một ví dụ tuyệt hảo
về động từ agapaô được diễn
tả ra thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến
tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc
Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.
-
đã ban (16): Đông từ didomi không chỉ nhắm
đến cuộc Nhập thể (Thiên Chúa gửi Con vào
trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả
cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết:
“giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động
từ này tương tự với paradidomi, “trao nộp”,
ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didomi ở Gl 1,4.
-
Thiên Chúa sai Con (17):
Động từ apostellô này song song với “ban” (didomi)
ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng
có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26. Gioan dùng hai động từ có
nghĩa là “sai phái” có vẻ không phân biệt: pempô (26
lần) và apostelô (18 lần).
-
Con (17): Từ “Con” ở
dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong Ga thì hầu như song song với
cụm từ “Con Người” theo truyền thống
Nhất Lãm.
-
không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu
của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi
được gửi vào trần gian: không phải
để lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga
4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39,
Đức Giêsu lại khẳng định: “Tôi đến
thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy
nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế
gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến
cũng nhất thiết đưa loài người
đến chỗ phải lấy quyết định;
quyết định trọng yếu nhất của
đời người, là gắn bó với Con Một Thiên
Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược
lại, từ chối tin vào Người.
-
được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu
“được cứu độ” ở đây có nghĩa
là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga
12,47).
-
vì đã không tin (18): Mê
pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect) có nghĩa là “đã và
vẫn không tin”, một thái độ cứng lòng tin kéo dài.
-
tin vào danh (18): “Danh” chính là bản thân Đức Giêsu.
-
làm điều ác (20):
Kiểu dùng động từ “làm” với “điều
tốt”, “sự thật”, hoặc “điều xấu” (xem
cc. 20.21) là một kiểu nói Sê-mít.
3.- Ý nghĩa của bản văn
* Con phải lên cùng Cha (11-15)
Qua những lời đối thoại
giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta biết rằng
để được tham dự vào Nước Thiên
Chúa, phải có một khởi đầu hoàn toàn mới, do
Thiên Chúa ban trong bí tích Rửa Tội, nhờ quyền
năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở trong khởi
đầu mới này, chúng ta không được thụ
động, trái lại phải tin vào Con Thiên Chúa (x. 1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin chẳng
phải là chuyện của con người. Đức Giêsu
cho thấy rằng đức tin phải dựa trên
bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi sai
phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên
Chúa và lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt
tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc sống
chúng ta, đưa đến sự sống đích thực
không qua đi. Không có hai điều này, chúng ta
sẽ sai lầm về ý nghĩa của chính bản thân
chúng ta.
Làm thế nào để
tránh khỏi cái chết thảm thương và bảo
đảm cho cuộc sống chúng ta? Israel đã đứng trước những
câu hỏi này khi mà trên đường băng qua sa mạc,
họ bị rắn độc đe dọa (x. Ds 21,4-9). Thiên Chúa đã ra tay
cứu trợ Dân Ngài. Ngài đã bảo Môsê
đúc một con rắn đồng và treo vào cán cờ; ai
bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy
thì được sống. Thiên Chúa
vẫn trợ giúp chúng ta. Khi con người phạm
tội, Thiên Chúa đã đặt định rằng
Đấng Chịu Đóng Đinh là biểu tượng
của ơn cứu độ, là nguồn mạch
đưa tới sự sống. Đàng sau
Đấng Chịu Đóng Đinh là chính Thiên Chúa. Ngài
đã ban và sai Con của Ngài đến vì yêu thương
toàn thể nhân loại, để họ được
cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có một
cường độ và một chiều kích to lớn
đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta phải nói:
Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương chúng ta,
hơn chính Con của Ngài. Ngài không bỏ mặc thế
gian, mà lại còn ban cho chúng ta món quà là Người Con
vẫn sống trong một tương quan duy nhất
với Ngài.
* Tin vào Đức Giêsu là điều
cần thiết (16-21)
Thiên Chúa bày tỏ một sự ân cần lạ lùng đối với loài
người chúng ta, Ngài quan tâm giúp chúng ta thành công trong
cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở trong tình
trạng bấp bênh: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu
độ không cần chúng ta, hoặc là ngược
lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải
mở ra với sự ân cần của Thiên Chúa, phải
trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con Thiên
Chúa chịu đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng
Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con yêu
dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu
này của Thiên Chúa mới có thể thực sự
đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn
mở ra với ánh sáng và sức nóng của Người. Đời
sống chúng ta tùy thuộc đức tin của chúng ta.
Điều cần
thiết này có vẻ hiển nhiên. Tuy thế, có một hiện
tượng lạ lùng, đó là loài người lại
ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những lý do
để trốn tránh ánh sáng và tìm lá chắn là bóng tối;
những lý do này nằm nơi lối sống của con
người. Ai làm điều ác thì tự nhiên tránh ánh sáng;
ai làm điều thiện thì mới dám ra trước ánh
sáng, người ấy không có gì phải che giấu. Chúng ta
không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành
động để bày tỏ đức tin. “Điều
thiện”, đó là những gì chúng ta làm theo
ý Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng nghe Ngài, chân thành tìm cách
thi hành ý muốn của Ngài. “Điều ác” là những gì
chúng ta làm không theo các tiêu chí đó, khi
chúng ta không tìm Thiên Chúa, nhưng ích kỷ tìm cách thực
hiện các chương trình và ý muốn của riêng mình,
thậm chí ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình, thì khép lại với Thiên
Chúa và gặp nguy cơ là cũng cứ khép lại không
nhận được mạc khải xán lạn về
tình yêu của Ngài. Không nghiêm túc quan tâm
đến ý muốn của Thiên Chúa, làm sao có thể tin vào
tình yêu của Ngài? Chính tình yêu ấy lại càng
đưa người ấy xa rời khuynh hướng
ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận
rằng mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa! Ai luôn duy trì
một dây liên kết với Thiên Chúa, thì mở ra với
ánh sáng của tình yêu Ngài.
+ Kết
luận
Chỉ trong mấy câu Ga 3,14-21, tình yêu
của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người
được khẳng định với sự tha
thiết lạ lùng và điều kiện phải theo
để được hưởng nhờ tình yêu đó
cũng được xác nhận hết sức rõ ràng.
Đứng trước mạc khải vĩ
đại và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng ta không
còn có thể tránh né mà nói rằng Thiên Chúa chỉ là một
sức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta.
Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, cũng
không phải chỉ là một tư tưởng hay một
lý thuyết, một giả thuyết hoặc một
chuyện hão huyền trên mây trên gió, mà là một thực
tại lịch sử đích thực. Do đó, tình yêu
của Thiên Chúa rất thực hữu!
4.- Gợi ý suy niệm
1. Nói đến tình yêu là nói đến
sự quan tâm, sự thông dự, sự ân
cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi
sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho
người mình thương. Người ấy không
dửng dưng với con đường và định
mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho
người kia được sống
trong niềm vui và sự viên mãn. Đối
với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng
Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc
nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và
đến định mệnh chúng ta không, Ngài có để
ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không?
Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến
số phận của chúng ta, đã ban Người Con
Một để chúng ta được sống viên mãn ngay
từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa
đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).
2. Sau cuộc tạo dựng, sau Lề
Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn sóc khác, Chúa Con là tiếng nói
cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao
được Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người
Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng
người, sẽ chỉ cho từng người biết
con đường đưa tới ơn cứu
độ, sẽ đưa ta đến chỗ hiệp
thông với Người và đi đến cuộc
sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng
Chịu Đóng Đinh, không phải là một tư
tưởng hay là một lý thuyết, một giả
thuyết hay một chuyện tưởng tượng,
nhưng là một thực tại lịch sử đích
thực. Từ đó, chúng ta cũng phải
nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết
sức hiện thực.
3. Thiên Chúa, “một” (độc
thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là một mầu nhiệm
rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao
giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa không mạc
khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng các dữ kiện
của mầu nhiệm này, và tiếp cận bằng
những bước rất giới hạn và phiến
diện, đồng thời tin tưởng tuyệt
đối vào giáo huấn của Đức Giêsu Kitô.
4. Bản văn không nói trực tiếp
đến Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta đã
được mạc khải rằng Thiên Chúa và
Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách ban Thánh
Thần cho chúng ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù
sao mẩu đối thoại với Nicôđêmô cũng
đã cho thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng
do Thánh Thần ban cho. Thánh Thần đối nghịch
lại với xác thịt (Ga 3,6), với
những cái nhìn trần tục (3,12). Thiên Chúa Cha gửi Con
Một của Ngài đến với chúng ta, để
Người Con cứu chúng ta bằng cách thông ban Thần
Khí. Và chính Thần Khí giúp ta đi lên với Chúa Cha nhờ
trung gian Đức Kitô (x. Gl 4,4-7; Rm
8,15-17).
|