Đức
Giêsu chiến thắng satan
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Đây là phân
đoạn cuối của Lời tựa (1,1-15),
kể lại những hoạt động đầu tiên
của Đức Giêsu sau khi chịu phép rửa.
2.- Bố
cục
Bản văn này
gồm hai đơn vị:
1) Cám dỗ trong sa mạc (1,12-13);
2) “Bản tóm tắt” công việc rao
giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
a- nơi chốn và
thời gian (c.14a),
b- chính
“bản tóm tắt” (cc. 14b-15).
3.- Vài
điểm chú giải
- Thần Khí
đẩy Người (12): Động từ Hy Lạp ekballô, “quăng ra;
đuổi; kéo ra”, thuộc thì “hiện tại lịch
sử” (historic present), một thì tiêu biểu của TM Máccô.
Trong tác phẩm, động từ này luôn luôn hàm ý sức mạnh,
có khi là một sức mạnh áp đảo (đuổi ma
quỷ: 1,34; 3,15.22.23; 6,13; 7,26; 9,18.28.38;
16,9.17. Về người: 1,43; 5,40; 11,15;
12,8). Các Tin Mừng Nhất Lãm khác dùng những động
từ nhẹ nhàng hơn (Mt: anagesthai, “được
dẫn”; Lc: agesthai, “được dẫn”). Ý nghĩa:
chính Thánh Thần đã là sức mạnh làm cho Đức
Giêsu đi vào hoang địa.
- bốn
mươi ngày (13): Trong Mt và Lc, giữa những câu trao
đổi giữa Đức Giêsu và Satan, trích từ sách Xh
và Ds, chúng ta hiểu đây là một quy chiếu về
biến cố Xuất Hành. Còn trong Mc, có thể con số
“40” này là một âm vang của cuộc thử thách 40 ngày mà
Môsê (Xh 34,28) và ngôn sứ Êlia (1 V 19,1-8) đã trải qua.
- hoang
địa (sa mạc): Sa mạc có ảnh hưởng
dọc theo lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này
đã ghi lại hai kỷ niệm có vẻ mâu thuẫn nhau,
nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn
cảnh: (1) Thời gian ở trong hoang địa trước
tiên được trình bày như thời kỳ sống lý
tưởng của Dân được Thiên Chúa tuyển
chọn; khi ấy, lý tưởng tôn giáo của họ phát
triển phong phú và họ sống lý tưởng này ở
mức hoàn hảo. (2) Nhưng đây cũng là thời
thử thách, thậm chí thời trừng phạt, dành cho
tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng. Hoang địa vừa là nơi con người
tách mình khỏi trần thế để được
thanh luyện (các nhân vật lớn của dân Chúa
đến đây để làm cho các chương trình
của mình được chín muồi, hoặc để
tái phục hồi lòng nhiệt thành), vừa là nơi
thử thách. Ở đây, hoang
địa là nơi đáng sợ bởi vì có các dã thú
cư ngụ. Tác giả không quan tâm xác định
một địa điểm theo
địa lý.
- Satan (Hp. Sâtân, “kẻ
tố cáo, kẻ chống đối” (HL. satanas; x. Mc 3,23.26;
4,15; 8,33): Tên này tương tự với diabolos, “ác
thần”, “quỷ”, kẻ điều hành những sức
mạnh xấu xa, đối thủ của Thiên Chúa,
kẻ thù của loài người.
- cám
dỗ
(HL. peirazomai, “bị thử thách”, “bị cám dỗ”): Ở
đây động từ này hàm ẩn một ý đồ
gian ác. Hành động cám dỗ
được mô tả như là xảy ra suốt thời
gian 40 ngày. Mặc dù tác giả Mc không mô tả chi
tiết hơn việc quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta
có thể giả thiết là cuộc cám dỗ có một lý
do Kitô học, tức được nhắm vào việc thi
hành nhiệm vụ Mêsia. Người đã thắng Satan
như một báo trước; Người sẽ thắng
nó vĩnh viễn (x. 2 Tx 2,3-12; Kh 19,19t;
20,2.10).
- sống giữa
loài dã thú và có các thiên thần hầu hạ: Hoang địa
Giuđê là nơi cư trú của nhiều loại dã thú;
sự kết nối giữa các thiên thần hầu hạ
(diêkonoun: thì vị-hoàn [imperfect] để mô tả một
việc phục dịch kéo dài suốt thời gian ở
trong hoang địa) và sự che chở khỏi các thú
dữ khiến có thể coi Tv 91,11-13 là
một bối cảnh. Với hoạt cảnh này, tác
giả cho hiểu là với Đức Giêsu, thời cánh chung đã bắt đầu: Đức Giêsu
là Ađam mới, có thể đưa ta trở lại
Địa đàng.
- Sau khi ông Gioan
bị nộp (14): Gioan Tẩy Giả lại
được giới thiệu là Tiền Hô của
Đức Giêsu. Đức Giêsu bắt
đầu hoạt động công khai sau hoạt
động của Gioan. Chi tiết này thuộc về
lược đồ lịch sử cứu độ
hơn là lịch sử trần thế: Đức Giêsu
không thể bắt đầu được trước
khi vị Tiền Hô ra khỏi sân khấu. Kết
thúc tàn bạo Gioan phải chịu cũng gợi ý xa xa
về số phận của Đức Giêsu.
Động từ HL paradothênai (thái bị động)
khiến ta phải thấy ở đây có bàn tay của
Thiên Chúa làm việc (áp dụng cho Đức Giêsu: 9,31; 10,33; 14,41) .
- Tin Mừng của
Thiên Chúa: Công thức với thuộc-cách này vừa có nghĩa
là Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói
về Thiên Chúa. Đây là một “Tin Mừng”, nghĩa là tin
về một sự kiện có thật, chứ không
phải là một suy diễn, một giả thiết,
một lý thuyết, thậm chí một lệnh truyền. Do
có mạo từ xác định, đây chính là Tin Mừng
tuyệt hảo, mà người ta không thể thêm vào
một tin nào hay hơn, tốt hơn, mừng hơn.
- Thời kỳ
đã mãn: “Thời kỳ” (kairos
[thời gian đã định, lúc] ≠ chronos [khoảng thời gian]) là thời
điểm quyết liệt Thiên Chúa đã định,
mọi sự tùy thuộc thời điểm này (x. Đn
7,22; Ed 7,12; 9,1; Ac 4,18; Kh 1,3; 1 Pr 1,1). Trong TM Lc, có những quy
chiếu về thời kỳ này (Lc 12,56;
19,44).
- Triều
Đại Thiên Chúa đã đến gần: Trong Cựu
Ước, Thiên Chúa được nhận biết như
là Chúa Tể và Vua của Israel (x. Is 43,15; 52,7); và người ta chờ đợi
Người tỏ mình ra công khai như là Đức Vua và
Chúa Tể duy nhất và thống trị tất cả
mọi sự thật rõ ràng (x. Mk 4,7; Xp 3,15; Dcr 14,9).
Đức Giêsu không nói: “Triều Đại Thiên Chúa mà anh
em vẫn chờ đợi đang hiện diện trong
mức viên mãn”; nhưng: “Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần”. Đó là đặc điểm của
thời kỳ hoàn tất này, thời kỳ đầy ân sủng và thời kỳ quyết liệt,
thời kỳ này bây giờ đã bắt đầu.
Như thế, trung tâm của sứ điệp của
Đức Giêsu là: “Thiên Chúa là Chúa Tể; vị Chúa Tể
này đã gần kề”. Người là vị
Chúa Tể có quyền quyết định và lo lắng cho
chúng ta. Đó là Tin Mừng tuyệt
hảo. “Đến gần” có nghĩa là: khi
đến lúc đã định, Triều Đại Thiên
Chúa đã đến và kể từ nay bắt đầu
tỏ rõ ra: một sự giằng co giữa hiện
tại và tương lai. Đây là một
sự kiện hiện tại và một sự kiện
của thời cuối cùng.
- Anh em hãy sám hối
và tin vào Tin Mừng: Lời này cũng có nghĩa là “Hãy sám
hối là tin vào Tin Mừng”, tức bằng cách (diễn
tả qua việc) tin vào Tin Mừng.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
* Cám dỗ trong sa mạc (12-13)
Kể
từ Giáo Hội sơ khai, các nhà chú giải đã coi
bức tranh mô tả Đức Kitô ở trong hoang
địa với dã thú như là một đối trưng
của Ađam trong vườn. Tình trạng thù nghịch giữa loài
người và dã thú, một hậu quả của sự sa ngã của Ađam, không được áp
dụng cho Đức Giêsu. Tình trạng
Đức Giêsu ở trong hoang địa sống hài hoà
với muôn loài và quan hệ thân tình với Thiên Chúa cho
thấy đó là hoàn cảnh của nhân loại nếu
Ađam đã không phạm tội. Một
hoang địa biến thành địa đàng là một hình
ảnh ngôn sứ Isaia dùng để mô tả ơn cứu
độ (x. Is 11,6-9; 32, 14-20; 65,25).
Không
như dân Israel ngày
xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở trong
hoang địa. Thông thường, sự cô
độc này hẳn là dấu chứng tỏ một
người điên hoặc bị quỷ ám. Tuy nhiên,
các thiên thần là dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan
hệ với Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con Thiên
Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ trợ của
Thiên Chúa. Tác giả Mc đã nói vắn tắt
về Satan khiến các học giả đi đến
nhiều kết luận. Một số
vị cho rằng Đức Giêsu bị khép vào tình trạng
xung đột với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, Satan không mấy khi xuất hiện trong
phần Tin Mừng còn lại như tác nhân cám dỗ. Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ
Người có khả năng xua đuổi bất cứ
thứ quỷ nào. Do đó, rất có thể Mc
nhắm cho độc giả nghĩ rằng Đức
Giêsu đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi
sứ vụ của Người bắt đầu.
* Khởi đầu hoạt
động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê
(14-15)
Trước
khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời
sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt
hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến
cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc
hoạt động của ông. Đức Giêsu,
trước đây đã được Gioan ban phép rửa
cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và
tại đó, Người bắt đầu công trình
của Người. Sứ điệp Người
phải truyền đạt được xác định
ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin
Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về
Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo
được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về
tương quan Người muốn thiết lập
với ta. Đức Giêsu cho biết
rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở
thành hiện thực. Thời gian đang
khởi đầu với lời loan báo và hoạt
động của Đức Giêsu là thời gian của
sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc
biệt của Thiên Chúa. Tất cả những
điều này khiến chúng ta vui mừng và tin
tưởng.
+ Kết luận
Không giống như
TM Mt (4,1-11) và Lc (4,1-13), TM Mc không giải
thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang
địa. Các câu chuyện Israel đi trong hoang
địa, cũng như Ađam và Evà ở trong
vườn là những ví dụ về thế nào là bị
cám dỗ và sa ngã. Những
câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về
thế nào là bị thử thách và đứng vững.
Nếu tin tưởng vào Lời Chúa thì
đứng vững; nếu không tin tưởng vào Lời
Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn
trung thành với Thiên Chúa, do đó, dã thú sống hoà bình
với Người, còn các thiên thần thì hầu hạ
Người.
Muốn
chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta
phải triệt để quay về với Thiên Chúa,
phải cậy dựa vào Lời Chúa.
5.- Gợi ý
suy niệm
1.
Người Kitô hữu chọn Đức Kitô và xin
chịu phép rửa tội, thì chia sẻ số phận
của Đức Kitô; người ấy sẽ bị
Satan cám dỗ. Tuy nhiên, người ấy
cũng sẽ được hỗ trợ bởi chính
Đức Kitô và các thiên thần của Người.
2. Vì Tin Mừng
Đức Giêsu mang đến là Tin Mừng tuyệt
hảo, Tin Mừng này là nền tảng cho niềm vui và
sự tin tưởng của chúng ta. Ai đón tiếp Tin
Mừng này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết
rằng Thiên Chúa ở gần bên để ban ơn cứu
độ.
3. Thời kỳ
Đức Giêsu loan báo liên hệ với các lời Thiên Chúa
hứa trong Cựu Ước: Thiên Chúa trung thành với
lời hứa. Do đó, chúng ta vui mừng, tin tưởng
và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng thời kỳ này chỉ
là thời kỳ chan hòa niềm vui cho ai biết nhận
định như thế, và có một thái độ thích
hợp: “sám hối và tin vào Tin Mừng”, tức là biết
chọn lựa.
4. Thiên
Chúa là Chúa Tể chứ không phải là nô lệ của chúng
ta; chúng ta không thể coi Người như ngang vai; chúng ta
không thể áp đặt cho Người bất cứ
chuyện gì. Người có tất cả
mọi quyền bính và sức mạnh; Người
quyết định và quy định. Bởi vì Thiên
Chúa là Chúa Tể chân thật duy nhất, chúng ta
được tự do đối với mọi chúa
tể và quyền lực khác. Sứ
điệp nói rằng Thiên Chúa là Chúa Tể là sứ
điệp về sự giải phóng cơ bản của
chúng ta. Mọi chúa tể và quyền
lực khác được trả về đúng chiều
kích của họ.
5. Thiên Chúa là Chúa
Tể mọi nơi mọi lúc, nhưng quyền chủ
tể của Người có thể ở trong tình trạng
giấu ẩn, rất khó nhận ra, đến nỗi
người ta có thể nghĩ rằng Thiên Chúa và Triều
Đại Người không hiện hữu. Để có
thể nhận ra quyền chủ tể của Thiên Chúa,
cần phải có đức tin, rồi khám phá ra dần
nơi lối cư xử của Đức Giêsu: nơi
Người, chúng ta được mạc khải cho
biết Thiên Chúa đến gần chúng ta như thế nào
với Triều Đại của Người và các hoa trái
của Triều Đại Người.
|