CHỮA NGƯỜI PHUNG HỦI
. Chú giải mục vụ của Jacques
Hervieux
Trình
thuật khởi đầu một cách đầy bất
ngờ, chẳng xác nhận thời gian lẫn nơi
chốn (c. 40a). Đặc biệt động từ
“đến” được dùng ở thì hiện tại
lịch sử. Chắc chắn Maccô muốn nêu bật giá
trị “hiện thực” của biến cố này cho
bản văn của ông. Thêm vào đó, ngay nơi bản
văn cũng đưa ra cho độc giả một vài
vấn nạn. Tại sao Chúa Giêsu lại đuổi
thẳng thừng anh chàng vừa được Ngài
chữa lành? (c. 43). Tại sao anh chàng phung hủi vừa
được chữa lành lại dám bất tuân không
giữ lệnh Chúa truyền cho anh ta phải giữ kín
miệng? (c. 45). Các nghịch lý này hẳn sẽ tác hại
cho sự mạch lạc của bản tường trình có
tính trực tiếp như thế nếu chúng không
được giải thích đầy đủ trong nhãn
quan của một sự cố được đọc
lại dưới ánh sáng đức tin. Chúng ta sẽ
thấy rõ điều này.
Người
bệnh tiến đến gần Chúa Giêsu, khiêm tốn, tin
cậy van xin: anh ta quỳ gối xuống trước
mặt Chúa, nài xin Chúa chữa lành nếu Chúa muốn (c.
40b). Muốn hiểu được lời thỉnh
cầu này, chúng ta phải biết rằng vào lúc bấy
giờ, người phung hủi là kẻ hoàn toàn bị “khai
trừ” khỏi xã hội. Mắc phải một chứng
bệnh nặng nề và ô nhiễm như thế, kẻ
ấy phải sống ngoài lề cộng đoàn của
mình. Ngay từ thời xa xưa trong quá khứ,
người ta đã đề ra những biện pháp phòng
ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi
sự đụng chạm thể xác giữa những người
khỏe mạnh và loại người mắc bệnh
đáng tởm này. Bức chân dung được luật
Môsê vẽ ra về loại bệnh nhân này tố cáo sự
khai trừ mãnh liệt của Lề Luật như sau:
“Một khi mắc chứng bệnh này, kẻ phong hủi
phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai xõa xuống,
râu mép để dài và phải la lớn: “Ô uế, ô
uế!”. Bao lâu còn mắc bệnh thì kẻ ấy vẫn
phải sống tách biệt, phải ra ngoài đồng
vắng mà ở” (Lv 13,45-46). Thực thế, trong Kinh Thánh,
bệnh hủi không những chỉ là thứ bệnh gây
kinh hãi, gặm nhấm và làm biến dạng hình hài bệnh
nhân (đến nỗi thấy kẻ ấy người ta
phải che mặt), nó còn là thứ bệnh mang chiều kích
tôn giáo. Kẻ mắc bệnh này bị xem như đã
phạm một trọng tội nên bị Chúa trừng
phạt. Một số giáo sĩ đương thời
Chúa Giêsu còn dám phóng đại cho rằng bệnh hủi
dùng để trừng phạt bảy mối tội
đầu như: vu khống, giết người, làm
chứng gian, ham trụy lạc, kiêu căng, trộm
cắp và tham lam. Từ thời xửa thời xưa,
người phong hủi bị mọi người kể
như là một xác chết biết di động. Bị
phung hủi là lập tức bị khai trừ, và bị
ruồng bỏ như một thây ma đầy “ô uế”,
nghĩa là không thể thông giao với Thiên Chúa cũng
như với loài người. Chỉ có Thiên Chúa mới có
thể chữa lành được thứ bệnh này. Ngài
đã dùng nó như hình phạt thì chỉ Ngài mới có
thể giải thoát bệnh nhân khỏi hình phạt đó
(xem Cuộc đời Myria, em gái Môsê trong Ds 12,1-16).
Thế
mà người ta trông thấy Chúa Giêsu đã phản ứng
như thế nào trước lời van xin của kẻ
phung hủi bị khai trừ khỏi xã hội và cộng
đoàn (c.41). Cử chỉ của Chúa Giêsu thật
đơn sơ nhưng tràn đầy ý nghĩa: Ngài dám
đưa tay chạm đến kẻ mà không ai dám sờ
đến. Và lời Ngài mang uy lực lời nói của
Thiên Chúa: Ngài nói và sự việc xảy ra đúng theo
lời Ngài (c. 42).
Khi
tường thuật lại sự cố này, hẳn Maccô
đã chủ ý mang lại cho nó trọn vẹn một trong
số các dấu chỉ giúp người ta nhận ra
việc khánh thành thời đại Đấng Mêsia (x. Mt
11,1-5, câu trả lời của Chúa Giêsu cho các sứ giả
của Gioan Tẩy Giả). Như vậy, Đấng
Mêsia, Đấng hồi phục trọn vẹn sức
khỏe thể lý và thiêng liêng cho con người, hiện
đang có mặt ở đây. Tuy nhiên, một lần
nữa, người ta lại ngạc nhiên về tiến
trình gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bệnh nhân
được chữa lành (c. 43-44a). Hành vi của vị
đạo sư quả là cứng cỏi. Ngài đuổi
anh chàng trước đó bị mắc bệnh phung
hủi: động từ trong tiếng Hy Lạp ở
đây có nghĩa là “xua đuổi, trục xuất”. Chính
Maccô đã dùng động từ này để chỉ
việc trục xuất ma quỷ (1,34-39’ 3,15-22; 6,13 v.v…). Sự
thô bạo của Chúa Giêsu đi kèm theo mệnh lệnh
nghiêm khắc truyền giữ kín miệng, nghĩa là
truyền anh ta phải giữ “Bí mật của
Đấng Thiên Sai”. Vị Đạo Sư không muốn
người ta hiểu sai ý nghĩa sứ mệnh của
Ngài. Ngài không phải là gã phù thủy mà họ mong
ước đến để tiêu hủy mọi sự
dữ trên trái đất. Họ chỉ có thể thực
sự hiểu được bản thể và sứ
mệnh sâu sắc của Ngài dưới ánh sáng cuộc
tử nạn và Phục Sinh của Ngài.
Trình
thuật tiếp tục với lời Chúa Giêsu yêu cầu
người trước đây bị phung hủi: “Hãy
đi trình diện tư tế…” (c. 44b). Khi sai anh ta
đến trình diện thầy tư tế, Chúa Giêsu
muốn bảo đảm cho anh ta được tái
hội nhập vào cộng đoàn tôn giáo. Chính thầy
tư tế là người chính thức được
đặc cách để chuẩn nhận việc anh ta
được lành bệnh (Lv 14,1-9 và tiếp theo). Chu toàn
nghi thức như thế trước các vị đại
diện dân chúng không khác nào đưa ra “bằng chứng”
cho dân Do Thái biết rằng Chúa Giêsu đã hoàn tất
niềm mong đợi lâu dài về Đấng Mêsia. Từ
đó họ phải kết luận ra rằng thời gian
cứu độ đã đến.
Tuy
nhiên đây quả là điều làm chúng ta ngạc nhiên: Anh
chàng phung hủi đã vi phạm lệnh Chúa truyền
phải nín lặng về trường hợp khỏi
bệnh của anh ta (c. 45a); Anh ta vẫn cứ “công bố”
tin này ra; đây chính là động từ được
dùng để diễn tả việc công bố Phúc âm. Rõ
ràng ở đây Maccô đã “ nhảy qua” thời đại
Chúa Giêsu để đặt các độc giả của
ông vào “hiện thực tính”. Người từng bị
phung hủi trước kia giờ đã trở thành
một loại thừa sai loan báo Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu
từ cõi chết sống lại thì “Bí mật Mêsia” không
cần giữ kín nữa. Giờ đây, sau khi
được các biến cố cứu độ soi sáng,
theo gương anh chàng phung hủi được Chúa Giêsu
chữa lành, các độc giả được mời
gọi loan báo sứ điệp giải phóng vui mừng
của Chúa Giêsu.
Tuy
nhiên, khi kết thúc trình thuật này, Maccô đã trở
về lại với thời đại Chúa Giêsu. Vì hành vi
cứu độ này cũng như vì bị dân chúng
đồn ầm lên, vị Đạo Sư bó buộc
phải lẩn trốn đám đông đang từ
khắp nơi tuôn đến với Ngài (c. 45b). Lúc khởi
đầu câu chuyện là một bệnh nhân đơn
độc bạo Gioan tiến đến gần Chúa Giêsu. Vào
đoạn kết là một đoàn người đông
đúc tuôn đến gần vị lương y.
Đối với đám đông này, cũng như
đối với độc giả, câu hỏi
được nêu lên như sau: “Người này là ai mà có
thể đem lại vị trí cũ cho những kẻ
bị khai trừ, giúp họ thông hiệp với Thiên Chúa và
với cộng đồng anh em bè bạn của họ?”.
|