Từ thán phục đến đức tin – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ
cảnh
Đoạn này có
một phần thuộc về một toàn bộ gọi là
“ngày ở Caphácnaum” (1,21-34; xin coi bài CN
tuần trước). Nhưng “một ngày ở Caphácnaum”
lại thuộc về toàn bộ rộng lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra
tại miền Galilê, đến bờ Biển Hồ, vào
thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra
khỏi đó, đến chiều thì ra cổng thành, sáng
hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê,
và cứ thế, “rao giảng trong các hội
đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác,
Người làm khắp nơi những gì Người
đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng
dạy và trừ quỷ.
2.- Bố
cục
Bản văn này có
thể chia thành ba phần:
1) Việc chữa lành mẹ vợ Simôn
(1,29-31);
2) Một “bản tóm tắt” về các
cuộc chữa bệnh (1,32-34);
3) Một
bước đi tới nhằm thực hiện sứ
mạng của Đức Giêsu (1,35-39).
3.- Vài
điểm chú giải
- Vừa ra khỏi…
(euthys, “tức khắc”) (29): Trạng từ
này chỉ có vai trò chuyển mạch, chứ không chỉ
về thời gian chính xác, bởi vì từ phép lạ
trừ quỷ đến việc chữa bệnh cho bà
mẹ vợ Simôn, hẳn là đã có một khoảng
thời gian khá dài thì “danh tiếng Người mới
đồn ra khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c.
28). Tác giả thường dùng trạng từ này mà không gán
cho nó một ý nghĩa chính xác nào cả (chỉ trong ch. 1
đã có 11 lần: cc. 10.12.18.20.21.23.28.29.30.42 và 43). Ở
đây Người đang tìm cách giới thiệu một
ngày mẫu trong sứ vụ của Đức Giêsu: “Ngày
ở Capharnaum”. Do đó, ta không nắm được
thời điểm chính xác của các sự kiện.
Nhưng ta có thể cho rằng chuỗi “chữa bà mẹ
vợ Simôn – các cuộc chữa bệnh cbuổi chiều”
đã có trước cả khi các TMNL được
soạn ra, bởi vì chi tiết “chiều đến” đã
có cả trong Mc và Mt. Lc đã bỏ trạng từ “tức
khắc” (euthys) nhưng giữ lại chi tiết “(rời)
hội đường”. Ngài sẽ triển khai chi tiết
này thành một đề tài thần học quan trọng và
sẽ lặp lại trong sách Cv: khi
Đức Giêsu giảng dạy trong một thành phố hay
làng mạc nào, Người luôn bắt đầu bằng
giảng dạy tại hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như thế.
- ra
khỏi hội đường (29): Đức Giêsu
ra khỏi hội đường không những vì đã
đến giờ đóng cửa, nhưng còn vì những
người nghe chưa hiểu gì. Họ còn đang hỏi:
“Thế nghĩa là gì?” (c. 27), như các môn đệ sau này
khi chứng kiến trận bão được dẹp yên:
“Vậy người này là ai?” (4,41).
Nhưng họ chưa có câu trả lời. Có lẽ đây
là một biểu tượng: bao lâu người ta còn
ở trong hội đường, người ta không
thể trở thành môn đệ của Đức Giêsu
được; phải ra khỏi đó như thể
thực hiện một cuộc xuất hành mới. Ở
c. 39, tác giả dùng một tính từ để phân
biệt: “các hội đường của họ”. Ở
xa hơn, ngài kể rằng sau khi Đức Giêsu đã làm
phép lạ trong hội đường, nhóm Pharisêu bàn tính
với nhóm Hêrôđê để tìm cách giết Người
(3,1-6). Chính vì thế, Người lánh
về phía Biển Hồ: Người đi ra và
người ta lũ lượt đi theo Người (3,7). Trước khi xảy ra sự cố
bánh hoá ra nhiều, Đức Giêsu cũng lánh riêng ra một
nơi và người ta kéo đến với Người
(6,32-33). Người còn ra khỏi
Đền Thờ và thành Giêrusalem (11,11;
11,19; 13,1). Lc còn nói rõ hơn: lần đầu tiên giảng
dạy tại hội đường Nadarét, Đức
Giêsu đã phải tránh đi để khỏi bị
giết (Lc 4,16-30).
-
Đến nhà hai ông Simôn và Anrê (29): Phải chăng tác giả muốn
đối lập hội đường với nhà Simôn,
được coi như hình ảnh của Hội Thánh? Thật ra, Mc
chưa nhắm đến tên “Phêrô” với sắc thái
Hội Thánh như Mt và Lc: hai tác giả này chỉ còn nói
đến Phêrô mà thôi (x. Mt 8,14; Lc 4,38),
nên trong hai bản văn này, ý nghĩa “Hội Thánh” rõ ràng
hơn.
- Có ông Giacôbê và Gioan (29): Bốn môn
đệ đầu tiên, những người thân tín
nhất, được chứng kiến phép lạ. Câu này
hẳn là có giá trị như một ngoặc đơn, do
chính Phêrô kể cho tác giả Mc.
- Bà lên cơn sốt (30): Pyressousa là phân
từ nữ tính của động từ Hy Lạp pyressô,
“bị sốt” (trong động từ này, có từ pyr,
“lửa”. Trong bản văn song song, Mt 8,15
dùng danh từ hL pyretos, “sức nóng của lửa; sốt
cao”). Đối với người xưa,
“sốt” không phải là một triệu chứng mà là
một bệnh. Sốt, đôi khi đưa
đến tử vong, là một trong các hình phạt
Đức Chúa (Yhwh) dành cho dân thất trung của
Người (x. Lv 26,16). Cũng như cho
các chứng bệnh khác, người ta thích gán cho “sốt”
một nguồn gốc thuộc ma quỷ (so sánh Lc 4,39 và Mt 8,15 (= Mc 1,31), mà chỉ có việc
cầu nguyện và một phép lạ mới thắng
được (x. Ga 4,52; Cv 28,8).
Theo viễn
tượng này, dân Caphácnaum hẳn là hiểu rằng phép
lạ giới thiệu Đức Giêsu là vị sứ
giả của Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia đã hứa;
vị này sẽ cứu loài người khỏi những
nỗi đau buồn, hậu quả của sự dữ
luân lý (x. Is 26,19; 29,18t; 33,3; 35,5…). Vậy
phép lạ này là dấu cho thấy đã đến thời
cánh chung, thời thiên sai: Đức Giêsu
đang hành động với chính quyền năng của
Thiên Chúa. Nhưng con người còn phải mất một
thời gian mới khám phá ra và chấp nhận
được ý nghĩa của dấu chỉ này.
- Người
cầm lấy tay bà mà đỡ dậy (êgeiren) (31): Câu này
dịch sát là: “Và lại gần, Người đỡ bà
dậy sau khi đã cầm lấy tay bà”. Muốn diễn
tả một cách thông thường, hẳn là nên viết:
“Đức Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt
biến mất; bà trỗi dậy …”.
Đấy là kiểu nói của hai tác giả Mt (Mt 8,15: “bà trỗi dậy”, êgerthê, aor. pass.
của động từ HL egeirô) và Lc (Lc 4,39: “bà trỗi
dậy”, anastasâ, aor 2 của động từ HL anistêmi).
Động từ egeirô được Mc dùng ở dạng
ngoại động (transitive) có nghĩa là “giúp trỗi dậy”,
đã trở thành một từ ngữ chuyên môn để
nói về sự sống lại.
- bà
phục vụ các ngài (31): Trong bối cảnh của phép
lạ hoặc đúng hơn trong bối cảnh của
sự tiếp đón Đức Giêsu nhận
được tại nhà Simôn, “phục vụ” (HL. diakoneô)
trước tiên có nghĩa là chiêu đãi ăn uống (x. Mc
1,13; Lc 8,55). Nhưng ở đây, có thể tác giả Mc
đang nghĩ đến chính lời Đức Giêsu nói:
“Con Người đến không để được
người ta phục vụ, nhưng là để phục
vụ (diakonêsai)” (10,45). “Phục
vụ” không chỉ hệ tại việc phục dịch
bàn ăn, nhưng nếu cần, còn hệ tại việc
“hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”
(c. 45). Đó là lý tưởng Đức Kitô
đề nghị cho những ai Người đã cho
sống lại từ cái chết do tội lỗi gây nên.
Riêng Mt lại
viết ở dạng số đơn: “bà chỗi dậy
phục vụ Người” (Mt 8,15). Câu
này đã nới rộng ý nghĩa của động
từ: “Phục vụ Đức Giêsu” chính là bước
theo Người (x. Mt 25,44: phục
vụ những kẻ nghèo hèn bé mọn chính là phục
vụ Đức Kitô).
- người
ta đem (32): Epheron là động từ Hy Lạp pherô ở
thì vị-hoàn (frequentative imperfect), có nghĩa là “người
ta vẫn cứ đem, tiếp tục đem”.
- mọi
kẻ ốm (32): Rõ ràng không thể hiểu theo nghĩa
đen những câu khẳng định tuyệt đối
như thế (x. Mt 8,16; Lc 4,40). Chúng ta biết
là Đức Giêsu không chữa tất cả mọi
người đau ốm; Người đòi hỏi
đức tin. Cũng vì thế mà Mc không đi xa
hơn nữa, Người viết: “Đức Giêsu
chữa nhiều kẻ ốm đau” (c. 34). Tuy nhiên, theo não trạng Sê-mít, “nhiều” cũng có
nghĩa là “tất cả”.
- Cả thành (33): Có lẽ đây
cũng là một kiểu nói phóng đại, tổng quát
hoá. Tuy nhiên cũng có một sự kiện thường
xảy ra: truyền thống nhiều lần kể rằng
người ta không thể đi qua cửa nhà bởi vì
người quá đông, đành phải kéo người bệnh
lên mái nhà mà thòng xuống (2,1-4) hoặc
phải nhờ người báo tin vào trong (3,32).
- Quỷ (34): Từ daimôn
xuất hiện 3 lần trong Mc 1,32-34 và
thêm một lần nữa ở c. 39. Đây là
mối bận tâm lớn của Mc. Đức Giêsu đã
đến để đánh đuổi quỷ và giải
thoát loài người khỏi quyền lực chúng. Ngay
từ đầu, vị Tẩy Giả đã giới
thiệu Đức Kitô như Đấng “mạnh hơn”
(1,7). Người đã khởi
đầu sứ vụ bằng một chiến thắng
trực tiếp trên Satan (1,12-13). Ngay khi
Người lên tiếng rao giảng, một kẻ bị
quỷ ám đã tìm cách ngăn chận Người, nhưng
quỷ đã bị trục xuất (1,23-27).
Trong phần Kết (“Kết dài”), dấu chỉ
đầu tiên thuộc về người môn đệ
hệ tại việc “trừ quỷ” (16,17).
Trong viễn tượng này, mọi bệnh
tật đều do ma quỷ gây nên, mọi cuộc
chữa lành bệnh tật đều là một chiến
thắng trên quỷ. Chúng ta cũng ghi nhận là Mc
không cung cấp một định nghĩa nào về ma
quỷ, cũng không nói chúng là loại hữu thể nào;
nhưng đọc các mô tả của ngài, ta ghi nhận ba
nét tiêu biểu của ma quỷ: 1) chúng có thể chi
phối loài người; 2) chúng biết chân tính của
Đức Giêsu và biết Người là kẻ thù của
chúng; 3) chúng vâng phục Satan (3,22-26) là kẻ ở trong sa
mạc đã cám dỗ Đức Giêsu (1,13) và hành
động chống lại hoạt động của
Đức Giêsu (4,15).
- không
cho quỷ nói (34): Tác giả Mc trở lại với
lệnh giữ bí mật (thiên sai) như trở lại
với một đề tài ưa chuộng. Quỷ tức
khắc nhận ra đối thủ của chúng, nên chúng
đã gầm thét lên có thể vì muốn chiếm thế
“thượng phong”, nhưng chắc chắn vì sợ hãi, vì
đã thấy trước thất bại, khi đứng
trước Đấng Thiên Chúa sai phái đến (x.
3,22-27). Đối với dân chúng, Đức Giêsu tự
mạc khải ra cho họ cách tiệm tiến bằng cách
cho họ thấy những dấu chỉ chứng tỏ
quyền lực của Người trên những chứng
nan y (1,40-45), trên tội lỗi (2,5-12),
trên ngày sa-bát (2,28), và cuối cùng trên sự sống (ch.
15–16). Tuy nhiên, người ta tiến rất
chậm.
Như vậy,
một hành vi đức tin đặt nơi Đức
Giêsu chỉ thực sự có giá trị khi nó hàm chứa
một hiểu biết đầy đủ về sứ
mạng và công việc của Người, đặc
biệt hiểu rằng Người phải chết và
sống lại để hoàn tất công việc này.
- Người đi
cầu nguyện (35): Tác giả Lc sẽ nói nhiều hơn
về điểm này. Mc không cho biết đối
tượng hoặc nội dung của lời cầu
nguyện của Đức Giêsu, nhưng mẩu
đối thoại sau đó hé cho chúng ta thấy
được chiều hướng Đức Giêsu theo khi cầu nguyện: đối thoại
với Cha Người về sứ mạng Người
đang thực hiện.
- vì
Thầy ra đi cốt để làm việc đó (38): Phải
chăng đây là ra đi khỏi Caphácnaum hay là rời cung
lòng Chúa Cha mà đến trần gian (nghĩa Ga: Ga 16,28; x. Lc
4,43)? Chắc là Mc vẫn còn đang ở gần các sự
kiện đã xảy ra: Đức Giêsu không muốn mình
bị cuốn hút bởi thành công. Sau này cũng thế, sau
khi nhân bánh ra nhiều, Người lại rút lui vào cô
tịch để tránh dân chúng và để đặt mình
vào trong kế hoạch của Chúa Cha (Mc 6,46;
x. Mt 14,23; Ga 6,15b). Cơn hấp hối tại vườn
Ghếtsêmani cho thấy rõ điều này. Các
môn đệ, và đặc biệt Phêrô, tỏ ra ngỡ
ngàng, vì các ông chưa hiểu sứ mạng của
Thầy.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
* Việc chữa
lành mẹ vợ Simôn ( 29-31)
Tại
nhà Simôn, Đức Giêsu đã chữa mẹ vợ ông
khỏi sốt cao. Như thế, Người cho thấy
Người làm Chúa tể trên một thứ tai
họa khác của loài người, đó là bệnh
tật. Nhưng trong nhãn quan của TM II, bệnh tật
cũng là do ma quỷ, nên chữa lành bệnh tật
cũng là chiến thắng trên ma quỷ. Ở đây, chúng
ta ghi nhận là lần đầu tiên Đức Giêsu
chữa lành bệnh tật là cho một phụ nữ, trong
khung cảnh đơn sơ và thân tình của một ngôi
nhà và của một gia đình. Bằng chứng cho thấy
bà này đã thực sự được lành bệnh là bà
đã ân cần chu đáo phục vụ
các khách quý. Cũng như Đức Kitô đã đỡ bà
mẹ vợ Simôn trỗi dậy khi mà bà đang bị
cơn sốt bắt nằm bất động như
một người đã chết, Người cũng nâng
chúng ta dậy, cho chúng ta sống lại, để chúng ta
có thể phục vụ Người (x. thêm 9,27).
* Một “bản tóm
tắt” về các cuộc chữa bệnh (32-34)
Hành vi
đó của Đức Giêsu trong ngày đầu tiên hoạt
động công khai đưa tới hậu quả là dân
chúng hiểu là khi ở trong tình trạng quẫn bách,
họ có thể trông mong được ai giúp đỡ. Khi chiều đến, họ đưa tất
cả mọi bệnh nhân và những người bị
quỷ ám đến với Người. Đức Giêsu như bị cả một
đại dương đau thương và bần
khốn vây quanh và tấn công; toàn thể niềm hy vọng
được đặt để nơi Người.
Người có thể đương
đầu với tình trạng quẫn bách này. Người có khả năng giúp đỡ và trong
thực tế Người đã giúp đỡ.
* Một bước
đi tới nhằm thực hiện sứ mạng
của Đức Giêsu (35-39)
Vì Đức Giêsu
đã đánh thức và củng cố lòng tin tưởng
của dân chúng, không lạ gì khi chúng ta thấy họ
muốn giữ Người lại và như thế
chắc chắn là luôn luôn có sự trợ giúp của
Người. Nhưng Đức Giêsu tránh khỏi tay họ: từ sáng sớm, Người
đã vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Và Người không để cho người ta
cầm giữ lại. Người
biết rằng nhiệm vụ của Người không
phải là trợ giúp thường xuyên dân Caphácnaum, nhưng
là loan báo trong toàn miền Galilê rằng Triều Đại
Thiên Chúa đã gần kề.
+ Kết luận
Tuy các
nhà chuyên môn vẫn nhìn nhận TM Mc là một bản kêrygma
hơn là một sách huấn giáo, điều này không có
nghĩa là tác giả nói về đức tin cách hời
hợt. Trái lại, ngài rất đòi hỏi.
Chính vì thế, ngài đã có một khoa sư phạm đáng
phục: giúp độc giả tiếp cận với
mầu nhiệm Đức Giêsu tiệm tiến. Ngài
hiểu rất rõ là đức tin sẽ đưa
người ta đến sự đổi đời
với những dấn thân quan trọng. Phải
chăng Phêrô đã nhấn mạnh như thế, sau khi
trải qua kinh nghiện đau thương? Nhưng
cũng chắc chắn là bởi vì vào lúc TM II
được soạn thảo, các hoàn cảnh trong đó
các Kitô hữu đang sống là những hoàn cảnh
rất khắc nghiệt, đòi hỏi người ta
phải cương quyết gắn bó với Đức
Kitô cho đến chết.
Đoạn
Tin Mừng này cũng nhắc các Kitô hữu nhớ
đến sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng, bên
ngoài những lãnh thổ quen thuộc.
5.- Gợi ý
suy niệm
1. Cũng như
ở Caphácnaum, Đức Giêsu đã tiếp nối lời
giảng dạy uy quyền bằng việc trừ quỷ,
Người tiếp tục nối tiếp lời loan báo
bằng việc dùng uy quyền trục xuất các sức
mạnh đang đối kháng lại Thiên Chúa và hành hạ
loài người. Lời nói của
Người được chứng thực bằng
việc làm của Người.
2. Liên kết
giữa loan báo và hành vi quyền lực
nhằm chữa lành cũng là đặc điểm
của hoạt động của các tông đồ (3,14t;
6,12t). Việc loan báo Triều Đại Thiên
Chúa được củng cố bằng hành động
hữu hiệu dựa trên sức mạnh vô song của
Thiên Chúa.
3. Gương
Đức Giêsu đi cầu nguyện khiến chúng ta
phải xem lại cách chúng ta đánh giá ý nghĩa của
việc cầu nguyện cũng như những tiêu
chuẩn giúp chúng ta sử dụng thì giờ. Nếu chúng ta
không thể hoặc không muốn dùng thì giờ mà làm cho mình
được tự do để sống cho Thiên Chúa, các
động lực đang nâng đỡ hoạt
động của chúng ta rất có thể cần
được xét lại. “Nếu
Đấng không có tội mà còn cầu nguyện như
thế, những lẻ tội lỗi còn phải cầu
nguyện đến thế nào. Nếu
Người đã thức qua đêm mà cầu nguyện liên
lỉ, chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ và cũng
phải canh thức đến độ nào” (Thánh Xýprianô).
4. Cũng nên coi
lại giá trị chúng ta gán cho sự thinh lặng, sự
yên tĩnh, sự cô tịch. “Chính Đức Giêsu, với
sức mạnh không cần được nâng đỡ trong
một cuộc tĩnh tâm, cũng không bị ngáng trở
bởi xã hội loài người, đã quan tâm để
lại cho chúng ta một gương sáng. Trước
khi thực hiện sứ vụ rao giảng và làm phép
lạ, Người đã vào nơi cô tịch chịu
thử thách cám dỗ và nhịn đói (Mt 4,1t). Kinh
Thánh kể lại cho chúng ta rằng, Người đã
bỏ lại đó đám đông môn đệ, mà leo lên núi
để cầu nguyện (Mc 6,46).
Rồi khi giờ Thương Khó đã đến gần,
Người bỏ các môn đệ, và ra đi cầu
nguyện một mình (Mt 26,36):
gương sáng này giúp chúng ta hiểu sự cô tịch có
lợi cho việc cầu nguyện đến thế nào,
bởi vì Người không muốn cầu nguyện bên
cạnh các bạn đường, ngay cả các tông
đồ.
Không
được bỏ qua một mầu nhiệm liên hệ
đến tất cả chúng ta như thế. Là Đức Chúa, là
Đấng Cứu Độ loài người, Người
đã cung cấp nơi bản thân một gương sáng
sống động. Một mình nơi hoang địa,
Người chỉ lo cầu nguyện và tập tành
đời sống nội tâm – ăn
chay, canh thức và những hoa trái khác của việc sám
hối – nhờ đó thắng vượt các cám dỗ
của Đối Thủ bằng vũ khí của Thánh
Thần.
Lạy Chúa Giêsu, con chấp nhận rằng
ở bên ngoài, không có ai ở với con; nhưng là
để cho ở bên trong, con ở
với Chúa hơn nữa. Khốn cho con người ở
một mình, nếu bạn không ở một mình với
Người! Và có biết bao người ở trong đám
đông mà lại thật sự cô độc, bởi vì
họ không ở với Chúa. Con mong muốn rằng, không
bao giờ cô độc, nhờ ở với Chúa. Vào lúc này, không có ai ở với con, thế
nhưng con không cô độc: con là một đám đông
với chính con” (Guigues le Chartreux,
1083-1136).
|