Một giáo huấn có
uy quyền (1,21-28)
Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
Trong đoạn văn
trên đây, ở ngay đầu Tin Mừng, Maccô cho ta
một trình thuật cô đọng và rất có ý nghĩa
về sinh hoạt mang tính “Mêsia” của Chúa Giêsu: lời Ngài
giảng dạy nối liền với một cuộc
trừ quỷ. Lời mở đầu bản trình
thuật thật là rõ ràng (c.21). Sự kiện xảy ra
ở Caphanaum. Thị trấn này nằm dọc theo bờ
hồ Galilê. Chúa Giêsu dùng nơi này như trung tâm của
việc rao giảng và là chốn qua lại trong công cuộc
truyền giáo (9,33), cũng như những người Do
Thái đạo đức thời ấy, Chúa Giêsu năng
lui tới “hội đường”. Nơi đó
người ta tụ họp để cầu nguyện và
nghe lời Thiên Chúa. “Ngày Sa bát”, ngày thứ bảy trong
tuần, là ngày nghỉ được thánh hiến cho Thiên
Chúa (St 2,2-3). Ta biết việc phụng tự ở
hội đường diễn ra thế nào trong ngày đó
(Cv 13,14-15). Sau khi đọc một đoạn luật Môsê
và sách tiên tri, người ta mời một người
lớn tuổi cho lời dẫn giải về những
đoạn Kinh Thánh vừa đọc. Nhân dịp này, Chúa
Giêsu lên tiếng giảng dạy (x. Lc 4,16-22). Các ký lục
ngồi ở hàng đầu.
Bốn lần (c. 21b-22 và
27) Maccô nhấn mạnh về “giáo huấn” của Chúa
Giêsu. Hiếm khi thấy trong cuốn Tin Mừng này ông cho ta
biết nội dung của “giáo huấn” ấy. Nhưng ông
lại nhấn mạnh tới tính độc đáo
của giáo huấn. Sự hiểu biết của Thầy
vượt xa hẳn các ký lục (c.22). Là thủ lãnh bè
biệt phái, các ký lục là những nhà thông thái. được các kinh sư nổi tiếng
đào tạo về Thánh Kinh, họ là những
người diễn giải Sách Thánh có thẩm quyền,
nhưng giáo huấn của họ lại dựa trên những
truyền thống của các bậc thầy họ. Còn Chúa
Giêsu, Ngài không giảng dạy như các ký lục, nhưng
Ngài giảng dạy với uy quyền đến từ
Thiên Chúa. Ở đây từ Hy Lạp “uy quyền” có
nghĩa rất mạnh. Từ này được lấy
ở một đoạn Thánh Kinh Cựu Ước, trong
đó Thiên Chúa ban cho Đấng Mêsia của Ngài một
“Quyền lực” tối thượng (Đn 7,13-14).
Chúa Giêsu đã cho
thấy sự trổi vượt của Ngài trên các
bậc kinh sư Do Thái (c. 23-24). Để hiểu
được tính khác thường của đoạn
văn này, ta cần biết rằng vào thời
Thượng cổ tất cả những sự dữ mà
con người phải chịu đều được
quy trách cho ảnh hưởng độc hại của
thần dữ. Diễn tiến của câu truyện như
ta thấy cũng đã được dùng trong các trình
thuật về phép lạ nơi người Do Thái và
người dân ngoại thời Chúa Giêsu. Đó là một
“nghi thức trừ tà”. Lược đồ tổng quát
giống hệt nhau. Người trừ tà bắt tay vào
cuộc chiến với thần dữ. Một trong hai bên
sẽ xướng tên của đối thủ. Trong
thế giới Sêmit, biết tên của ai là có ưu thế
hơn người ấy. Ở đây, thần dữ
biết rõ căn cước của Chúa Giêsu: Ngài là
“Đấng Thánh của Thiên Chúa”, tức là Đấng
Mêsia. Nhưng thần dữ xưng ra điều này
với dáng vẻ sợ hãi. Nó cảm nhận
được Chúa Giêsu đến tiêu diệt nó và
đồng bọn. Đúng vậy: Đấng Mêsia lâm trận lần cuối cùng
dẹp tan sức mạnh của sự dữ (x. 3,22-30). Chính
vì thế Chúa Giêsu tỏ ra mạnh thế. Ngài xua
đuổi thần dữ bằng một lời uy
quyền (c. 25-26). Giống như các câu truyện của
thời bấy giờ, việc xua đuổi “quỷ”
được Maccô thuật lại với những
hiện tượng mắt thấy tai nghe: nạn nhân
vặn vẹo thân mình và kêu một tiếng lớn. Không có
gì đáng sợ cả. Nhưng điều đáng lưu ý
chính là những mệnh lệnh Chúa Giêsu truyền cho
thần dữ: “Câm đi!”. Lệnh truyền thật
quyết liệt. Lệnh này có ý nhắm tới lời
bộc lộ của thần dữ: “Tôi biết ông là ai
rồi, ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (c. 24b).
Tại sao Chúa Giêsu
lại cấm nói về căn cước của Ngài cách
nghiêm ngặt như thế? Đó là phát biểu đầu
tiên mà người ta gọi là “bí mật về Đấng
Mêsia” trong Tin Mừng Maccô. Chúng ta sẽ thấy, trong
suốt cuốn Tin Mừng này, Chúa Giêsu kién quyết bắt
ma quỷ phải giữ kín căn cước của Ngài
(1,34b; 3,12v.v…) cũng như Ngài cấm những
người được chữa lành và các môn đệ
tuyên xưng, dù chỉ phần nào, tính “Mêsia” của Ngài
(1,43-44a; 7,36a; 8,31 v.v…). Dường như Maccô đã hình
thành nên một thái độ thường xuyên của Chúa
Giêsu đối với những quan niệm dân gian ở
thời Ngài. Trong niềm khát mong Đấng Mêsia,
người Do Thái chờ đợi một nhân vật mang
ít nhiều tính thần thoại. Người ta tin rằng,
với một chiếc đũa thần Đấng Mêsia
sẽ thay đổi kiếp sống của con
người trên mặt đất. Ngài sẽ biến hoang
địa thành một kho chứa đầy cơm bánh (Mt
4,3). Ngài sẽ tiêu diệt hết mọi bệnh tật
(Mt 4,24). Một số người còn ngĩ rằng,
chẳng biết Ngài đến từ đâu, nhưng Ngài
sẽ không chết (Ga 12,34). Đối với Chúa Giêsu,
để cho người ta công bố quá sớm Ngài là
Đấng “Kitô” là “Con Thiên Chúa” là khuyến khích sự tin
tưởng sai lầm của người dân về
Đấng Mêsia và gây tổn hại lớn cho việc
biểu lộ tiệm tiến sứ vụ và thân thế
đích thực của Ngài. Theo Maccô, thực ra chỉ có
cuộc tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu mới
mạc khải được dung mạo đích thực
của Đấng Mêsia mà người ta phải tin
tưởng. Trước khi những biến cố
mặc khải trọn vẹn này xảy ra, ta nên theo
lệnh Thầy là giữ im lặng.
Giống như lúc
khởi đầu, trình thuật này kết thúc bằng
việc cố ý nhấn mạnh tới sự mới
mẻ mà Chúa Giêsu mang đến: một lời cứu
độ hoàn toàn hiệu nghiệm như Lời của Thiên
Chúa. Ta hiểu được sự kinh ngạc và nỗi
thắc mắc bao trùm trên đám đông dân chúng (c. 17a). Chúa
Giêsu vừa làm xong một điều chưa từng
thấy. Ngay trong ngày Sabbat, ngày nghỉ ngơi bất
khả xâm phạm, Chúa Giêsu biểu dương uy quyền
tuyệt đối trên sức mạnh của thần
dữ. Bởi đâu Ngài có uy quyền thế này?
Người ta thắc mắc hỏi nhau như thế. Và
thắc mắc này còn gặp thấy qua suốt cuốn Tin
Mừng: “Ông Giêsu Nadaret” này là ai vậy? Sau cùng, Maccô chỉ
còn việc cho ta thấy rõ danh tiếng Chúa Giêsu lan rộng
khắp xứ Galilê sau vụ chữa lành này (c.28).
|