Chúa Giêsu công
khai rao giảng - JKN
Câu
hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu đến
để xây dựng Nước Thiên Chúa. Bạn quan
niệm Nước Thiên Chúa là gì? ở ngay trần gian này hay
ở đời sau? Bản chất của nó là gì?
2. Bản chất của
Nước Thiên Chúa chính là Tình Thương. Trong đời
sống Kitô hữu, việc cầu nguyện và lãnh nhận
các bí tích rất quan trọng, nhưng so với việc
thực hiện tình yêu thương thì việc nào quan
trọng hơn? Cái nào là mục đích, cái nào là
phương tiện? Cần phải quan trọng hóa hay làm
nổi bật cái nào?
Suy
tư gợi ý:
1. Đức Giêsu đến
để xây dựng triều đại Thiên Chúa
Khi bắt đầu xuất
hiện công khai để loan báo Tin Mừng, Đức
Giêsu tuyên bố với mọi người: “Thời kỳ
đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến
gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Ngài nói
vậy nghĩa là gì? - “Thời kỳ đã mãn” nghĩa là
đã hết một thời kỳ, và đã đến lúc
bắt đầu một thời kỳ mới. Thời
cũ là thời của Cựu Ước, với những
tinh thần và luật lệ của Cựu Ước.
Thời của Cựu Ước là thời chuẩn
bị cho thời của Tân Ước. Và Đức Giêsu
đến để khai mở thời kỳ Tân
Ước, với những tinh thần và luật lệ
mới của Tân Ước. Thời Tân Ước là
thời xây dựng triều đại Thiên Chúa do
Đức Giêsu chủ xướng và thiết lập. Ngài
nói: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. “Đã
đến gần” có nghĩa là còn đang đến
chứ chưa thành hiện thực. Triều đại
ấy có thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào
Đức Giêsu và những người cộng tác với
Ngài.
2. Triều đại Thiên Chúa hay
Nước Thiên Chúa là gì?
Triều đại Thiên Chúa mà
Đức Giêsu muốn thiết lập là một kỷ
nguyên mới, trong đó nhân loại được sống
trong an bình hạnh phúc, nhờ biết yêu thương nhau,
hy sinh cho nhau, sống cho nhau. Ngài đã đưa ra một “điều
răn mới” cho kỷ nguyên mới này: “Thầy ban cho anh
em một điều răn mới là anh em hãy yêu
thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em” (Ga 13,34; x. 15,12.17). Và yêu
thương phải trở thành dấu hiệu đặc
trưng của những ai theo Ngài, đặc trưng
đến nỗi chỉ việc nhìn vào tình thương
họ dành cho nhau, mà mọi người nhận ra họ là
người theo Ngài: “Mọi người sẽ nhận
biết anh em là môn đệ của Thầy ở
điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Ngài đã thiết lập Giáo Hội như một cộng
đoàn đặc biệt của Ngài nhằm thực
hiện Nước Thiên Chúa, trong đó, tình thương
thống trị trong lòng mọi người, khiến
mọi người trong cộng đoàn đó yêu
thương và hy sinh cho nhau, coi nhau như anh chị em,
nhờ đó họ luôn luôn đầy đủ và hạnh
phúc. Và nhờ sự hấp dẫn luôn luôn có của tình
thương, Giáo Hội ấy ngày càng mở rộng, và lan
tràn khắp thế giới. Lúc ấy, thế giới
sẽ trở thành Nước Thiên Chúa, ngay tại trần
gian này. Ngài đã ban cho Giáo Hội những phương
tiện rất hữu hiệu là các bí tích để thông
ban sức mạnh thiêng liêng để con người
thực hiện điều ấy.
3. Một lý do khiến Giáo
Hội chưa thực hiện được Nước
Thiên Chúa
Thế nhưng cho đến nay,
nhìn vào Giáo Hội và thế giới, người ta không
khỏi nghi ngờ: liệu việc xây dựng “Triều
đại Thiên Chúa” hay “Nước Trời” của
Đức Giêsu có thành tựu được không? Xem ra lý
tưởng của Đức Giêsu vẫn còn xa vời
lắm, mặc dù Giáo Hội đã nỗ lực thực
hiện lý tưởng ấy suốt 2000 năm nay. Có
thể một trong những lý do khiến chúng ta không thành
công là chúng ta chưa quan tâm đủ đến sứ
điệp trọng tâm của Đức Giêsu là tinh
thần yêu thương, mà quá quan tâm đến những
phương tiện - là việc cầu nguyện, các bí tích
- để đạt được tinh thần ấy.
Quả thật, những
phương tiện mà Đức Giêsu đặt ra rất
cần thiết và hữu ích, nhưng dù thế nào chăng
nữa, chúng vẫn chỉ là những phương
tiện. Biến những phương tiện ấy thành
mục đích hay cứu cánh là vô hiệu hóa chúng, thậm
chí làm chúng biến chất, làm chúng trở nên có hại thay
vì có lợi. Nếu “đồng tiền là một
đầy tớ rất tốt, nhưng lại là một
ông chủ rất xấu”, thì tương tự như
vậy: các phương tiện Đức Giêsu lập ra như
các bí tích, việc cầu nguyện, v.v... là những
phương tiện rất tốt, nhưng lại là
những mục đích rất xấu. Nghĩa là nếu
chúng ta nhắm mục đích rõ ràng là sống yêu
thương nhau, và quyết tâm thực hiện sự yêu
thương ấy, thì việc cầu nguyện và các bí tích
sẽ là những phương tiện hết sức
hữu hiệu để đạt được
mục đích ấy. Còn nếu chúng ta coi chúng là mục
đích, thì chúng sẽ trở thành những yếu tố
phá hoại sự yêu thương ấy, cũng là phá
hoại tôn giáo.
Khốn thay rất nhiều Kitô
hữu không hề ý thức sứ điệp căn
bản của Đức Giêsu là tình yêu thương, nên
không mấy quan tâm tới điều chính yếu ấy.
Họ chỉ chủ yếu quan tâm tới việc thực
hành những phương tiện mà Đức Giêsu lập
ra để đạt mục đích ấy, và coi việc
thực hành những phương tiện ấy chính là
bản chất việc sống đạo Kitô giáo. Họ
đã biến phương tiện thành mục đích, vì
thế, những phương tiện ấy chẳng
những chẳng đạt được mục đích
mà Đức Giêsu muốn chúng đạt được,
mà chúng lại trở thành một thế lực ngăn
cản con người đạt đến mục
đích ấy. Thật vậy, biết bao Kitô hữu
cảm thấy mình đạo đức chỉ vì đã
đi lễ hằng ngày, rất siêng năng lãnh nhận các
bí tích, rất chuyên cần đọc kinh cầu
nguyện... đang khi họ đối xử với tha
nhân, thậm chí với cả những người trong gia
đình mình, chẳng mấy tốt đẹp. Như
thế họ đã quan niệm sai lầm về việc
sống đạo, nhất là về bản chất
của Kitô giáo. Điều này thiết tưởng
những người có nhiệm vụ rao giảng, dạy
dỗ trong Giáo Hội phải chịu trách nhiệm
phần nào!
4. Để xây dựng
Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu cần những
người cộng tác
Ngay khi bắt đầu sứ
mạng loan báo và xây dựng Nước Thiên Chúa, việc
đầu tiên Đức Giêsu phải làm là tìm những
người có tâm huyết cộng tác với Ngài. Chắc
hẳn những người được Ngài mời
gọi theo Ngài làm tông đồ, Ngài đã nhận ra
nhiệt huyết của họ trong những lần Ngài nói
chuyện với dân chúng về Nước Trời
trước đó. Vì thế, khi Ngài mời gọi họ,
họ lập tức bỏ mọi sự để lên
đường theo Ngài ngay. Và với 12 môn đệ -
tức 12 người cộng tác đắc lực -
được Ngài tuyển chọn, Ngài đã lập nên
cả một Giáo Hội phát triển rộng lớn
như ngày nay. Sau 20 thế kỷ khởi công xây dựng
Nước Thiên Chúa, người theo Đức Giêsu
hiện nay trên thế giới tuy rất đông nhưng
dẫu sao vẫn còn rất ít ỏi so với số
lượng đáng lẽ phải đạt
được. Vì hiện nay số người Kitô
hữu mới chỉ chiếm 1/3 dân số thế
giới. Đó là nói về số lượng, còn chất
lượng người Kitô hữu thì sao? Bao nhiêu phần
trăm Kitô hữu thật sự sống tinh thần yêu
thương của Đức Giêsu đúng như Ngài đã
truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em” (Ga 13,34)? Đối với thế
giới, Kitô giáo có phải là một biểu tượng
hay gương mẫu của tình thương, của
sự khoan dung, hay chỉ là biểu tượng của
lễ nghi, của sự khắt khe, không khoan nhượng?
Thời nào Đức Giêsu
cũng cần những người có tâm huyết cộng
tác với Ngài. Và chắc chắn thời nào cũng không
thiếu những con người nhiệt tình sẵn sàng hy
sinh cho công cuộc của Ngài. Nhưng nhiệt huyết
xuông, không đủ, chúng ta cần phải đi đúng
đường lối của Ngài. Nếu không, nỗ
lực của Giáo Hội chúng ta sẽ chỉ là những
nỗ lực kiểu “dã tràng xe cát biển đông, nhọc
nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Thiết tưởng chúng
ta cần phải nắm vững cái nào là cái chính yếu,
cái nào là cái phụ thuộc; cái nào là mục đích, cái nào
là phương tiện; cái nào là bản chất, cái nào là
hiện tượng. Nhờ phân biệt rõ ràng như
thế, chúng ta mới biết hy sinh cái phụ thuộc cho
cái chính yếu, coi nhẹ phương tiện hơn
mục đích, coi trọng bản chất hơn hiện
tượng.
Cứ thử xét cách dùng danh
từ của nhà đạo chúng ta thì biết chúng ta đã
quan trọng hóa cái gì: cái chính yếu hay cái phụ thuộc?
Chúng ta gọi những việc cầu nguyện hay bí tích là
những “việc đạo đức”. Điều đó
khiến nhiều Kitô hữu lầm tưởng rằng
cứ cầu nguyện hay lãnh nhận các bí tích cho nhiều
là trở thành người đạo đức. Nhưng
thật ra rất nhiều người làm được
như vậy một cách rất gương mẫu,
nhưng chẳng ai mến phục chỉ vì họ sống
thiếu tình thương. Thực ra đạo đức
được thể hiện trong chính cuộc sống
thường ngày: trong cách cư xử, cách làm việc, cách
nói năng… Một người có đạo đức khác
với những người không đạo đức
chủ yếu ở trong chính cách cư xử, làm việc,
nói năng… chứ không phải trong việc cầu
nguyện và lãnh nhận các bí tích. Vì thế, thiết
tưởng khi chúng ta làm những bổn phận hằng
ngày như làm ăn buôn bán, quét nhà nấu ăn giặt
giũ, tiếp xúc nói chuyện cư xử với mọi
người...nếu chúng ta làm với tinh thần yêu
thương vị tha, thì chính khi làm như vậy là ta
thực hiện những việc đạo đức.
Việc cầu nguyện và các bí tích giúp ta có ơn Chúa, có
sức mạnh để làm những việc ấy
với tinh thần yêu thương của Chúa, chứ chúng
không thay thế tinh thần yêu thương ấy.
Cầu nguyện hay lãnh nhận
các bí tích mà không thể hiện tình yêu thương trong cách
cư xử, làm việc, ăn nói, suy nghĩ, thì giống
như một người đi làm quần quật suốt
ngày để có tiền, nhưng chẳng dùng số
tiền ấy vào việc gì, cứ cất vào một
chỗ để dành. Như thế tiền bạc ấy trở
nên vô ích. Tiền bạc chỉ trở nên ích lợi và
đem lại hạnh phúc khi được chi tiêu
để thỏa mãn những nhu cầu cần thiết
của đời sống. Cũng vậy, cầu
nguyện hay lãnh nhận bí tích chỉ có ích lợi và đem
lại ơn cứu rỗi khi chúng nhắm thực
hiện mục đích mà Chúa muốn là thể hiện tình
yêu thương cách hữu hiệu.
Cầu
nguyện
Lạy Cha, bản chất
của Cha là Tình Yêu, và bản chất của Nước
Trời do Đức Giêsu thiết lập cũng là Tình Yêu.
Do đó, tình yêu chính là mục đích và bản chất
của Kitô giáo. Việc cầu nguyện, các bí tích chính là
những phương tiện hữu hiệu để
thực hiện mục đích hay bản chất ấy.
Xin Cha đừng để người Kitô hữu chúng con
lầm lẫn mục đích với phương tiện,
điều chính yếu với điều phụ
thuộc. Có như vậy, Nước Trời mới
thật sự hình thành tại trần gian này. Xin cho chính
bản thân con ý thức điều đó.
|