Dòng nước và dòng đời
(Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa – Chúa Nhật I TN,
năm B)
Lãnh nhận Phép Rửa là “dấu chỉ
bề ngoài” chứng tỏ chúng ta đã đón nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ. Từ khi
lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa, một hồng
ân quá lớn!
Phép Rửa
của Ông Gioan là Phép Rửa của sự sám hối (Mt 3:11), nhưng Chúa Giêsu vô tội nên không cần sám hối. Thánh
Gioan nhân biết tội mình và biết mình chỉ là tội nhân, cần sám hối, không đáng
xách dép cho Chúa Giêsu, nên ông ngại mà nói với Chúa Giêsu: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa,
thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14). Nhưng Đức Giêsu trả lời: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như
vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt
3:15). Nghe nói vậy ông Gioan mới chiều theo ý Ngài. Chúa Giêsu đến với Thánh
Gioan Tẩy Giả cho thấy Ngài chấp nhận Phép Rửa của ông. Lòng thương xót của
Thiên Chúa được tỏ hiện qua việc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa.
Nói cách khác, ngay từ lúc khởi đầu
sứ vụ, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia và là “Chiên Thiên Chúa, Đấng
xóa tội trần gian” (Ga 1:29). Ông Gioan vừa làm Phép Rửa xong, Thiên Chúa liền
tỏ ra dấu chỉ tỏ tường là “các tầng trời xé ra, và Thần Khí như chim bồ câu ngự
xuống”, sự thật minh nhiên đó đã được chính Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người” (Mt 3:17; x. Mc 1:11).
Thật kỳ diệu, “Đấng chẳng hề biết
tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng
ta, để làm cho chúng ta nên công chính
trong Người” (2 Cr 5:21). Chúa Giêsu là Đấng công chính, không cần sám hối,
nghĩa là không cần chịu Phép Rửa, nhưng Ngài chịu Phép Rửa để làm gương cho
chúng ta, còn chúng ta thực sự cần Phép Rửa và cần sám hối, vì chúng ta là các
tội nhân. Hãy mở lòng để đón nhận ơn tha thứ!
Phép Rửa là “cửa ngõ” để chúng ta
bước vào miền cứu độ. Trong cuộc đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh
của người Do-thái, Chúa Giêsu nói với ông: “Không
ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên;
không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí”
(Ga 3:3 và 5). Và Thánh Phaolô xác định: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5).
Từ ngàn
xưa, Đấng Kitô đã được đề cập với danh xưng Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người
Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó
sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau
bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung
thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết
lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo” (Is 42:1-4). Người-Tôi-Trung đó chấp nhận đau khổ nhưng không
muốn người khác chịu đau khổ, luôn chạnh lòng thương người khác, nhất là đối
với những người yếu đuối, hèn mọn.
Thiên Chúa
xác nhận rạch ròi: “Ta là Đức Chúa, Ta đã
gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã
gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để
mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi
ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42:6-7). Mỗi chúng
ta cũng được Thiên Chúa gọi đích danh và đặt vào một vị trí theo Thánh Ý Ngài,
nhưng không phải để tự tôn hoặc ích kỷ giữ riêng cho mình, mà phải hành động
tích cực, dùng những gì mình đã được Ngài trao ban để làm lợi cho tha nhân – đặc
biệt là đối với những người bị áp bức, bị bóc lột, bị tước đoạt những quyền cơ
bản của con người,...
Tất cả mọi
sự chúng ta tận hưởng, cả tinh thần và vật chất, đều do Thiên Chúa ban, chúng
ta chẳng có gì và chẳng đáng gì mà dám vênh vang tự đắc. Tác giả Thánh Vịnh đã
nhận thức như vậy, và mời gọi chúng ta: “Hãy
dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng
Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện” (Tv
29:1-2). Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Chúng ta chúc tụng
Ngài thì Ngài cũng chẳng thêm được gì, nhưng chính chúng ta lại hưởng lợi ích
từ việc chúc tụng đó. Thiên Chúa luôn tìm mọi cách làm lợi cho chúng ta, thật
là kỳ diệu quá!
Ngài là
Đấng vô hình mà lại hữu hình, vì Ngài vẫn hiện diện trong mọi thứ: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên
Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa
thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm!” (Tv 29:3-4). Thiên Chúa toàn
năng, và chỉ có Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Thật vậy, chính Thiên Chúa đã
truyền lệnh: “Ngươi không được có thần
nào khác đối nghịch với Ta” (Xh 20:3; Đnl 5:7).
Thiên Chúa
xuất hiện trong mọi vật và mọi sự. Những gì chúng ta gọi là tự nhiên hoặc thiên
nhiên thì chính là Thiên Chúa: “Tiếng
Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm. Còn trong thánh điện
Người, tất cả cùng hô: Vinh danh Chúa! Chúa ngự trị trên cơn hồng thủy, Chúa là
Vua ngự trị muôn đời” (Tv 29:9-10). Bổn phận của chúng ta là phải tôn thờ,
cảm tạ và chúc tụng Ngài, như Đức Giêsu Kitô đã nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người,
còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:33).
Tại nhà ông
Co-nê-li-ô, ông Phêrô lên tiếng nói: “Quả
thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên
vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc
bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Đức Giêsu
nhập thể và nhập thế để “cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18:11). Thánh Phêrô giải
thích rạch ròi: “Người đã gửi đến cho con
cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của
mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ
miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu
xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu
tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi
kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10:36-38).
Trước khi
Chúa Giêsu đến thế gian theo Kế hoạch Cứu độ của Thiên Chúa, ông Gioan đã được
sai đến trước để dọn đường. Ông là người được Thiên Chúa sai đến, nhưng phong
cách rất bình dân: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và
mật ong rừng. Có lần người ta hỏi ông là ai – Đấng Kitô, Ê-li-a hay ngôn sứ? Cả
ba lần ông đều trả lời “không”, ông chỉ dám nhận mình là “tiếng người hô trong
hoang địa” (Ga 1:20-23). Ông khiêm nhường bao nhiêu thì chúng ta cảm thấy xấu
hổ bấy nhiêu, vì chúng ta chỉ là “số không” thật lớn mà lại mạo nhận mình là
“cái rốn của vũ trụ”. Lạy Chúa tôi!
Ông rao
giảng về Đức Kitô: “Có Đấng quyền thế hơn
tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi
xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong
nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1:7-8).
Ông Gioan cho biết rằng ông cũng không biết Đức Giêsu là ai, nhưng khi ông làm
Phép Rửa cho Ngài, rồi thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên
Ngài, nên ông nhận biết Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga
1:32-34). Đặc biệt nhất là có tiếng từ trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1:11).
Di tích sông Gio-đan, nơi Chúa
Giêsu chịu phép rửa (Mc 1:6-11; Mt 3:13-17;
Lc 3:21-22), cách trung tâm thành phố Ti-bê-ri-a khoảng 10 km về phía
Nam trên sông Jordan, có một địa điểm thu hút khoảng nửa triệu người hằng năm.
Theo khoa khảo cổ và kinh thánh, nơi thực sự Chúa Giêsu chịp phép rửa cách xa
Yardenit cả trăm cây số, ở gần Biển Chết, thuộc về lãnh thổ Gio-đan: “Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên
kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa” (Ga 1:28).
Dòng sông
Gio-đan bình thường, nhưng bỗng trở nên vô thường vì là nơi Chúa Giêsu chọn để
ông Gioan làm Phép Rửa. Nước thật kỳ diệu. Nước rất mềm mà cũng rất mạnh, đặc
biệt là không thể tách hoặc cắt được nước. Ở đâu có nước là có sự sống, người
ta có thể nhịn đói chứ không thể nhịn khát, vì cơ thể chúng ta chứa tới 70% là
nước, mỗi ngày cơ thể cần khoảng 2 lít nước. Có điều lạ là quốc gia cũng được chúng
ta gọi là “nước” – nước Việt Nam. Phải chăng Việt ngữ muốn diễn tả nơi mình
sống được ví như nước? Còn nước là còn nơi sống, mất nước là mất nơi sống!
Nước biểu
hiện sự xuất hiện của Thiên Chúa, chứng tỏ quyền năng của Ngài: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên
Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông” (Tv 29:3).
Với Thiên Chúa, nước cũng được Ngài coi là chất liệu quan trọng nên Ngài đã
dùng nước để chứng tỏ chúng ta được tẩy sạch tội lỗi. Nước rất đặc biệt vì nước
còn là chất liệu Chúa Giêsu dùng làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới ở Cana (Ga
2:1-12), và cũng là chất liệu Ngài dùng để dạy “bài học phục vụ” khi Ngài rửa
chân cho các môn đệ (Ga 13:1-20). Nước còn quan trọng hơn nữa vì nước là chất
liệu biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và
Thần Khí” (Ga 3:5).
Chúa Giêsu
được dìm mình trong dòng nước Gio-đan để khởi đầu sứ vụ, dòng nước đó trở nên
Dòng Tình mà Chúa Giêsu muốn tuôn đổ Lòng Thương Xót cho chúng ta, đồng thời
cũng giao trách nhiệm cho mỗi chúng ta phải đắm mình trong dòng đời để phục vụ
mọi người, đó cũng là phục vụ chính Ngài vậy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình – Thánh
Phanxicô Assisi).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết đón nhậ
Đức Kitô là Đấng cứu độ và hết lòng phụng sự Ngài qua việc phục vụ tha nhân,
nhất là phục vụ những con người hèn mọn ở mọi ngõ ngách của cuộc đời này. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|