Truyền tin – R.
Gutzwiller.
1)
Khung cảnh bên ngoài
Đây cũng là một cuộc
loan tin, cũng nói tới chuyện báo trước về
việc thụ thai hoàn toàn bất ngờ, mà cũng chính do
thiên thần Gabriel chuyển lời; hơn thế cũng
là chương trình Thiên Chúa đưa ra, sẽ
được thực hiện từng điểm
một. Tuy vậy tất cả đều khác hẳn.
Cả khung cảnh bên ngoài, lẫn thái độ bên trong.
Đây ta hãy xem:
-
Trên kia, Lời Thiên Chúa
được loan báo trong miền Giuđa, giữa thủ
đô Giêrusalem. Ở đây sứ thần nói trong một
tỉnh biên giới của miền Galilê, một miền có
lẫn dân ngoại. Và không được trong tỉnh
lỵ Sepphoris hay ít là trong một thành nhỏ, hoặc
một thị trấn bên bờ hồ, nhưng trong
một làng miền sơn cước hoàn toàn vô danh.
-
Ở kia, sự loan tin xảy ra
nơi đền thờ trong giờ lễ long trọng;
ở đây, trong một căn lều quê mùa vào lúc mà
chẳng ai định nổi thời gian. Ở kia,
người đón nhận là một trong hàng tư tế
Israel; đang khi dân chúng hội họp nhau đợi
chờ, cầu nguyện; ở đây lời của thiên
thần đến với một thiếu nữ bình
dị mang tên là Maria, một cái tên thông thường có quá
nhiều người đặt; không một ai hiện
diện. Một bên với vẻ bên ngoài thật là hùng
vĩ, long trọng, đầy xúc động; một bên
thì bé nhỏ, bình thường và vô nghĩa.
-
Tuy nhiên, dù cả bên ngoài đi
nữa, ở đây xét về chính yếu vẫn có
những điểm lớn lao cao đẹp. Vì đang khi
thiên thần chờ sẵn thì Giacaria mới bước
vào. Thiên thần là kẻ chờ đón, còn Giacaria là
người tiến đến gặp. Thiên thần
nhập truyện luôn mà không chào hỏi gì cả. Đang khi
đó, Đức Maria ở nơi phòng của ngài, ngài là
người tiếp đón, trái lại thiên thần đi
đến, đi vào. Như được yết kiến
một nhân vật quan trọng với lời chào
đầy vẻ kính trọng: “Xin kính chào bà”.
Tìm lại văn bản ba
yếu tố: chào thăm, vui vẻ, và ơn phúc; tiếng
cuối cùng đã đặc biệt được
nhấn mạnh: “Bà đầy ơn phúc”. Maria luôn
đầy ơn và giờ này lại càng đặc
biệt hơn nữa “Chúa ở cùng Bà”. Thiên Chúa luôn ở
với Maria, bây giờ thì sự hiện diện đó
lại càng đặc biệt và vững bền hơn.
Giacaria phản ứng lại
bằng sợ sệt và rối loạn. Nơi Maria –theo
nguồn gốc của trình thuật Kinh Thánh- sự rung
động còn hơn nữa, nghĩa là nó ăn sâu vào
tận thâm tâm và cả hiện hữu của ngài. Việc
chào thăm cùng sự việc lời Thiên Chúa đến
với ngài hoàn toàn là bất ngờ. Mẹ vẫn chỉ
thầm mong được sống một cuộc sống
bình thường với một tâm tình đạo
đức bình dị, nên Mẹ đã đính hôn với
một người tên là Giuse. Như bất cứ một
phụ nữ nào khác, Mẹ không nghĩ gì ngoài con
đường của những người xung quanh trong
dân Israel. Vậy thì
Thiên Chúa muốn Mẹ làm gì đây? Lời mời gọi
đã đến, đột ngột quá. Đó hẳn không
phải là một hậu quả của một tình
trạng tâm lý dễ giải thích, mà cũng chẳng
phải là một dự phóng của một niềm hy
vọng thầm kín hay một đáp ứng cho một
niềm ao ước thiêng liêng. Trái lại đều do
Thiên Chúa và chỉ vì một mình Ngài thôi.
Đối với Giacaria và
Êlisabét, sự liên kết son sẻ biểu hiện sự
đau khổ, mối buồn lặng lẽ; có thể luôn
mang một tia hy vọng ghê gớm; chẳng thế mà
Giacaria sợ khó xảy ra nên mới xin một dấu. Còn
Maria, chẳng đợi chờ gì hết, lời của
Thiên Chúa làm Mẹ hoảng hốt, sửng sốt. Như
vậy hai cảnh tượng diễn ra song song với
nhau, nhưng lại hoàn toàn khác biệt nhau. Điều
đó còn rõ ràng hơn trong cuộc đàm thoại.
2.
Đàm thoại.
Hai sứ điệp của Thiên
thần mang theo hai câu trả lời của Đức
Maria.
Sứ
điệp thứ nhất: Lời nói
dịu dàng: ‘Maria xin đừng sợ’ dựa trên sự
kiện: ‘vì chị đã đắc sủng nơi Thiên
Chúa’. Người ta không thể chiếm hữu ơn
huệ hay tự cung cấp được cho mình.
Người ta chỉ có thể tìm kiếm và nhận lãnh.
Và bản chất của ơn này được mặc
khải ở đây: ‘Này đây, chị sẽ thụ thai
và sinh một con trai’. Để nhận hồng ân, ở
đây phải có sự thụ thai Ngôi Lời Thiên Chúa,
một thực tại thể xác chứ không phải
chỉ là thiêng liêng. Maria khi chấp nhận lời Thiên
thần thì đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa, và như thế
Ngôi Lời mang xác phàm trong lòng Mẹ. Đứa trẻ mà
Mẹ sinh ra cho thế trần là Thiên Chúa, như vậy
mới đúng với tước hiệu là Mẹ Thiên
Chúa: ‘Chị sẽ thụ thai và sẽ hạ sinh một
con trai’. Con Thiên Chúa trở nên con loài người vì đó người
‘mẹ phàm trần sẽ trở nên Mẹ Thiên Chúa.
‘Và chị
sẽ gọi tên Ngài là Giêsu’. Nếu tên của vị
tiền hô đã giầu ý nghĩa, thì danh hiệu này còn
hơn biết bao. Vì ‘Thiên Chúa là Ơn Cứu Độ’.
Chúa Giêsu hẳn là Đấng mang lại ơn cứu
độ. Do đó, sứ điệp của Thiên thần
là sứ điệp của ơn cứu độ. Và chính
ơn cứu độ đã xảy ra ở đây, đó
là biến cố quyết định cho tất cả
thời gian cứu độ. Lời Thiên thần diễn
tả một sự quả quyết, nhưng cũng là
một lệnh truyền: ‘chị sẽ sinh con’.
Người đang nghe nói, hẳn sẽ cộng tác bằng
sự nhất trí của mình. Như đối với
vị tiền hô, thiên thần cũng tuyên bố về cá
nhân và nhiệm vụ liên hệ.
Cá nhân: ‘Ngài sẽ
làm lớn’, Ngài là Đấng vĩ đại tuyệt
đối. ‘Chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao’. Và Ngài
sẽ được gọi là ‘Con Đấng Tối Cao’.
Không phải chỉ nhân loại mới gọi Ngài là Con, mà
cả Cha trên trời, cũng gọi như thế.
Với tư
cách là Lơì nội tại của Thiên Chúa, Ngôi Lời
đúng thực là ‘Đấng được phán’. Chính
bởi sự hiện hữu của việc
‘được phán’ mà Ngài là Con, và bởi sự hiện
hữu của việc làm Con, mà Ngài ‘được đặt
tên’ với ý nghĩa đầy đủ và dồi dào
nhất.
Nhiệm
vụ: ‘và Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngôi báu của Đavít,
tổ tiên Ngài’. Làm con Đức Maria, và làm Con Cha trên
trời kèm thêm quan hệ phụ tử với Đavít.
Triều đại của Đavít tìm lại
được vẻ huy hoàng đầy mới mẻ
nhưng không phải vẻ hào nhoáng bên ngoài của một
quyền hành thế trần. Đó là vẻ rực rỡ
bên trong của vinh quang Thiên Chúa.
‘Ngài sẽ làm
Vua nhà Giacóp cho đến đời đời: sự
quả quyết này mạnh mẽ hơn và có trường
độ lớn hơn vì thêm hai chữ ‘ đời
đời’. Đó là vì nói tới hình thức của
một vương quốc và một triều đại
khác. Cái vòng khép kín của thời gian với sự trở
lại chắc chắn của những biến cố
cũ đã bị phá rồi: vì Thiên Chúa, Đấng
điều khiển thời gian, đã can thiệp vào
thời gian và kéo dài cho tới đời đời. Vương
quốc được thiết lập, triều
đại được tu chỉnh, sẽ là vương
quốc và triều đại vĩnh cửu.
Một
vương quốc thế trần bị thời gian
giới hạn xem ra không sao có được ý
tưởng gì để so sánh. Vua dân Do thái đấy,
không cần ngai vàng vật chất, mà cũng chẳng
cần triều thiên óng ánh, nếu Ngài vác trên vai cây thập
tự, mang trên đầu mão gai, thì đó đâu phải là
ngày tàn của vương quốc và triều đại
Ngài, mà trái lại, đó là dấu hiệu ngày khai mạc
đã đến, nền tảng đã vững.
‘Vương
quyền của Ngài sẽ vô cùng tận’: vương
quyền đó không hoàn tất trong không gian và thời gian.
Hãy cố có một hình ảnh về Vĩnh cửu, ta
biết ngay nó vượt ngoài tầm tay con người và
vật thụ tạo. Như vậy, những lời nói
của Thiên thần biểu hiện một lời quả
quyết mạnh mẽ và long trọng, ý nghĩ mỗi lúc
mỗi tiến hơn theo từng tiếng một, sâu
như biển gầm, hùng vĩ như những rặng núi
cao và những tiếng sấm vang. Mới chợt nhìn, trong
vẻ đơn sơ, câu trả lời của
Đức Maria thật lạ lùng, hầu như là ngã lòng,
của một chủ thuyết duy thực, nhưng laị
bộc lộ một tâm hồn đáng thán phục
‘việc ấy xảy ra làm sao được, vì tôi không
nghĩ tơí người nam’. Thái độ tinh thần
này không còn là một sự sẵn sàng vui vẻ biểu
lộ hẳn ra bên ngoài, và chấp nhận với tất
cả hân hoan, mà chỉ là một sự chối từ vì
quá kinh hãi hay một sự rút lui vì khiêm nhường không
đúng chỗ.
Nó cũng
giống thái độ của Giacaria. Đối với
Maria, đương nhiên là mong muốn xảy ra chuyện
mà Thiên Chúa đã loan báo và yêu cầu qua Thiên thần, chỉ
có vấn đề là ‘cách thế’. Mẹ muốn và
phải biết Mẹ phải làm gì, con đường Thiên
Chúa chọn là con đường nào, khi thêm vào câu “không
biết tới người nam’, đó chẳng qua là Mẹ
muốn biết xem, theo Thánh ý Thiên Chúa, thì Mẹ phải
lập gia đình thực sự với Giuse sao? Phải
chăng Thiên Chúa đòi sự thụ thai và sinh con trong hôn
nhân? Đức Maria thực sự đã đính hôn, Thiên
Chúa muốn hôn nhân cử hành ngay và thụ thai Đức
Giêsu bởi Mẹ liền sao? Hay Ngài muốn xảy ra cách
khác? Đức Maria không đặt những điêù
kiện, Ngài chỉ hỏi thôi, Ngài muốn nhận rõ Thánh
Ý Thiên Chúa. Việc hoàn tất đối với Mẹ
hẳn sẽ xảy ra theo sau.
Lần
truyền tin thứ hai này của Thiên thần đã đi
quá xa lần loan báo cho Giacaria: ‘Thánh Thần sẽ
đến trên Người và quyền năng Đấng
Tối Cao sẽ bao phủ chị’. Như vậy có sự
tham dự của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: quyền năng
Đấng Tối Cao, Ngôi Con và Thánh Thần, Thánh Thần
đã bay xà trên mặt đất trong buổi đầu
của thế giới, như nguyên lý tạo dựng.
Cũng thế, Ngài sẽ bao phủ trinh nữ, để
tạo dựng và sinh Đấng Cứu Thế. Con của
Đức Maria là Con Thiên Chúa. Việc quyền năng
Đấng Tối Cao bao phủ trong viễn tượng
Kinh thánh nói tới việc Thiên Chúa hiện diện lạ
lùng nhưng rất đặc biệt.
‘Bởi
đó, trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là
Con Thiên Chúa’: Ngài không được gọi là
ĐẤNG THÁNH, mà là Thánh. Vì bản tính sinh ra cách trực
tiếp Ngôi vị mà bản tính này thuộc về là chính
Thiên Chúa. Trẻ này được gọi là Thánh, vì Ngài là
Thánh trong tất cả ý nghĩa đầy đủ
của hạn từ: ‘Chỉ có Chúa là Thánh’. Ngài sẽ
được gọi là Con Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng
Cứu Thế, Đấng mà tất cả dân
được chọn sẽ tái sinh trong Ngài, Đấng
đã nhận nơi Giavê danh hiệu thân ái của
Người Con. Ngài là Con Thiên Chúa vì Người Con từ
nội tâm là Thiên Chúa sẽ có bản tính này của loài
người như bản tính riêng của mình.
Maria không
đòi một dấu chứng như Giacaria. Nhưng chính
Thiên thần đã cho Ngài một dấu chứng: bà Êlisabét
son sẻ đã sinh con trong tuổi già. Một việc
thụ thai kỳ lạ sẽ là dấu chứng lạ
lùng cho sự thụ thai ở đây, nhưng hoàn toàn khác nhau.
Ở trên, tự bản chất là son sẻ, còn ở
đây, son sẻ bên ngoài là do sự giữ đồng
trinh: ‘tôi không biết đến người nam’. Làm
bằng chứng cho lời của Thiên thần là một
động lực sâu xa: ‘vì không có gì là không thể
đối với Thiên Chúa’. Lời này dựa theo sách Sáng Thế
(18,14): tiên báo cho Abraham rằng người vợ già cả
Sara của ông sẽ thụ thai và sinh con. Đó là một
điềm báo, một sự sửa soạn vho phép lạ
đang thực hiện, ở đây, của việc
thụ thai và sinh ra của Con thực Thiên Chúa đến
để dẫn dắt dân Thiên Chúa. Gốc của bản
văn cứ từng chữ phải nói là: ‘Vì Thiên Chúa có
thể làm được tất cả những gì Ngài nói’.
Tiếng ‘Thiên Chúa’ được Thiên thần thốt lên
ở đây là một hạn từ diễn tả
quyền năng, truyền khiến, động lực
của ý chí Thiên Chúa. Không chỉ là lời mời gọi,
nhưng còn là sự đòi hỏi và hơn nữa còn là hành
động tác tạo của Thiên Chúa.
Vì thế, câu
trả lời thứ hai và cũng là cuối cùng của
Đức Maria mặc một vẻ vĩ đại hoà
lộn với sự đơn sơ: ‘Này tôi là tôi tớ
Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo như lời Ngài’. Một
sự tương phản cứng cỏi và thô sơ đã
làm cho gần gũi giữa đầy tớ và chủ
nhân, Thiên Chúa là người chủ không hơn không kém, và
Người trở nên cao cả vào giờ phút này, đã
chỉ nhận cho mình là đầy tớ. Đó chính là
sự nhận thức khiêm hạ về một thực
tại, một khoảng cách giữa Đấng Tạo hoá
và tạo vật, giữa ý chí quyết định,
tuyệt đối tự do, có quyền đòi hỏi và
tạo dựng với ý chí được thỉnh
nguyện, mà sự tự do hệ tại ở việc
đặt mình vào ý muốn của Thiên Chúa để
được chìm vào giòng nước bao la của Ngài.
‘Xin hãy thành
sự cho tôi như lời Ngài’. Sự thực hiện có tính
cách quyết định nhất của lịch sử này
đã mở màn… ‘Xin hãy thành sự cho tôi’ vừa diễn
tả sự sẵn sàng thụ động và sự
chấp thuận chủ động. Thiên Chúa, khi ban cách
thế thực hiện và hình thức tạo lịch
sử, đã đặt vào đây yếu tố nhân
loại. Cùng với câu hỏi: ‘điều ấy sẽ
làm sao được?’. Là câu trả lời của
Đức Maria: ‘Xin hãy thành sự cho tôi!’. Đây hẳn
không phải do một sự vui mừng quá đỗi mà
cũng chẳng do một lời cầu khiêm hạ,
nhưng hoàn toàn là do bởi sự chấp thuận tự
nhiên Thánh Ý Thiên Chúa, một khi đã nhận thức rõ ràng.
Nhưng chính trong sự tự nhiên này, người ta
thấy được vẻ lớn lao vĩ đại.
Đối với Maria chẳng phải là ý riêng, cũng
không phải vì ý chí cá nhân hay do tài lợi khẩu nào
đưa đến mà chỉ do ý muốn và lời của
Chúa.
‘Và Thiên thần cáo biệt’. Trong câu
chuyện trên về Giacaria, chính ông rời đền
thờ, còn ở đây Thiên thần biến đi. Từ
đây phòng ở Nagiarét đã trở nên đền thờ.
Sự ẩn dật im lặng của Êlisabét chỉ là
một dấu chứng của sự im lặng sâu xa mà
ở nơi đó trong cung lòng Đức Nữ Trinh,
mầu nhiệm của Thiên Chúa được hoàn thành.
Một sự tinh tế lạ kỳ, một vẻ cao sang
trang trọng liên kết với vẻ đơn sơ trinh
khiết làm chứng một vẻ đơn sơ tinh
khiết làm chứng một vẻ vĩ đại
thực sự của tạo vật cởi mở hoàn toàn
cho Thiên Chúa.
|