LOAN BÁO CHO ĐỨC MARIA
Lời loan báo
này song song với lời loan báo trước. Tuy nhiên, không
phải từ Kinh Thánh mà Luca vay mượn một trình
tự như thế, nhưng từ văn chương Hy
Lạp. Khi ấy, tư tưởng Hy Lạp Platarque
đã xuất bản “Những cuộc đời sóng
đôi” gồm hai mươi ba cặp tiểu sử; trong
mỗi cặp, ông so sánh giữa một người Hy
Lạp với một người Rôma để chứng
minh rằng: dù người Rôma có cao cả bao nhiêu thì
người Hy Lạp vẫn có cái gì vượt cao hơn.
Thể loại văn chương mà Luca chọn ở
đây là để cho ta tìm không phải những
điều giống mà những điểm khác nhau, có
mục đích để bày tỏ trong hai cậu bé ai
vượt hơn ai. Sơ đồ những bài loan tin
(xem phần sau) cho thấy khoảng cách giữa Chúa Giêsu và
Gioan.
Hẳn nhiên là
câu chuyện không diễn ra trong khung cảnh huy hoàng của
đền thờ, nhưng khiêm tốn trong một thành
xứ Galilê tại một tư gia. Tuy nhiên, lần này thì chính vị sứ giả
từ trời phải ra đi, vào nhà Maria (c.28) và từ
đó mà đi ra (c.38). Sự kiện
mặc khải được trao cho bà mẹ tương
lai chứ không cho người cha nữa, đánh dấu
một khác biệt, tự nó không mang nhiều ý nghĩa
lắm. Những mô hình của Cựu
Ước thực ra cũng để cho phụ nữ
xuất hiện. Có cái ý nghĩa hơn
nhiều chính là sự đồng trinh của Đức
Maria. Nhờ ơn Chúa, bà Êlisabét vừa thụ thai một con trai do bởi chồng bà; còn
Maria mới chỉ đính hôn, cô chưa thể sống
chung với Giuse và sắp thụ thai mà không có kết
hợp phái tính. Việc Gioan sinh ra đã là
kỳ diệu và đối với Chúa Giêsu điều
đó còn kỳ diệu hơn.
Sự
đồng trinh của Maria cũng lưu ý về một
sự khác biệt lớn trong sơ đồ báo tin. Người thiếu nữ trẻ nêu vấn
nạn trước sứ điệp từ trời cao,
khi đặt một câu hỏi tương tự với
câu hỏi của vị tư tế. “Việc
ấy sẽ xảy ra như thế nào bởi vì tôi không có
liên hệ tính dục”. Thế mà lần này, sứ
thần lại không hề xem đó như một dấu
hiệu thiếu niềm tin; Ngài đáp lại câu hỏi mà
không phê bình, và cho Đức Maria một dấu chỉ,
ngược hẳn với điều mà Giacaria đã
nhận được, dấu chỉ ấy không phải
là một hình phạt: người bà con của cô đã có
thai. Chính là vì Đức Maria đang đứng
trước một tình huống hoàn toàn mới mẻ
từ căn tính trong Kinh Thánh, trong đó, không thấy nói
đến chuyện thụ thai mà không có kết hợp phái
tính, vị hôn phu của bà Êlisabét biết rõ lịch sử
của Abraham giống trường hợp của ông.
Như thế, hai việc loan báo song song khác biệt nhau
ở đây, và cái thinh lặng bắt buộc của
vị tư tế trái ngược với sự chấp
nhận thanh thản của nữ
tì Chúa, người đã suy phục Lời; và chỉ
sau đó Lời đã được thực hiện.
Đức Maria sẽ lại được nói tới
bằng danh xưng nữ tì
ở Lc 1,48, một từ ngữ mà Luca sẽ dùng ở
chỗ khác để chỉ những thành viên của
Hội Thánh (Cv 2,18; 4,29; 15,17)
Lời sứ thần chào
Đức Maria (c.28) là một cái gì “hơn nữa” không có
lời nào tương ứng khi báo tin cho ông Giacaria. “Kính chào cô! Người
được ưu ái [của Thiên Chúa]. Chúa ở
cùng cô!”. Thiên Chúa ưu ái cô
thiếu nữ khi chọn cô làm mẹ Đấng Cứu
Thế – nhưng cô chưa biết điều đó.
Công thức “Thiên Chúa ở cùng cô”, đã được
sứ thần của Chúa nói khi hiện ra với Ghêđêon
(Tl 6,12); Thiên Chúa bảo đảm Ngài sẽ bảo vệ
người mà Ngài giao một nhiệm vụ. Từ đó, ở câu sau, Đức Maria thắc
mắc về ý nghĩa của lời chào. Và chỉ
lúc sứ giả nói về việc Con Thiên Chúa (c.35) sẽ
sinh ra, Đức Maria mới biết mình là Mẹ của
Chúa (xem 1,43); như vậy công thức
chào lại càng có giá trị phản hồi đặc
biệt đối với độc giả.
Tên của sứ thần đã
cho độc giả biết ngay từ lúc đầu:
Gabriel như trong cảnh trước. Việc
sai sứ thần đến nhà vị hôn thê của một
người thuộc dòng tộc nhà Đavít nhắc ta
nhớ tới việc hoàn tất lời hứa về
Đấng Mêsia; nhưng Đức Maria không biết gì
về gốc gác của sứ giả – điều này
lại càng nhấn mạnh đến đức tin
của Ngài vào lời sứ giả.
Sứ điệp từ trời
liên quan tới em bé sắp sinh ra bị chia ra làm hai phần
bởi câu hỏi của Đức Maria. Phần
thứ nhất (c. 30-33) diễn tả chức vụ
tương lai của Chúa Giêsu (Ngài sẽ nên cao cả và
sẽ trị vì) bằng cách sử dụng những gì mà
Cựu Ước nói về Đấng Mêsia thuộc dòng
dõi Đavít. Cuộc đản sinh hoàn
tất hai lời tiên tri quan trọng đối với Giáo
Hội của Luca cũng như của Matthêu. Lời
thứ nhất là của Is 7,14 (c.31)
như trong bản Do Thái của câu này, chính người
mẹ sẽ đặt tên cho con: Giêsu “Thiên Chúa cứu”,
Luca không phiên dịch tên ấy cho độc giả
biết nhưng lại gán cho tên ấy tước hiệu
Đấng Cứu Thế ở 2,11. Lời hứa thứ
hai là sấm ngôn của Nathan trong đó Thiên Chúa tuyên bố
với Đavít: “Người sẽ con của Ta… ngai vàng
của Người sẽ vững bền mãi mãi (2Sm 7,14.16): vì vậy con trẻ sắp sinh ra
sẽ vừa là con vua Đavít vừa là con của
Đấng Tối Cao (c.32)”. Tuy nhiên, việc thụ thai đồng trinh mang đến một
sự điều chỉnh: không phải bởi Giuse, chính ông
thuộc nhà Đavít (c.27), mà Chúa Giêsu là con của Đavít và
vì thế được nắm vương quyền,
nhưng hoàn toàn do ơn ban của Thiên Chúa.
Lúc ấy,
Đức Maria thắc mắc về tình trạng hiện
tại của mình, khi được báo tin và đặt
câu hỏi về cách thức mà lời loan báo sẽ
được thực hiện. Phần
thứ hai của sứ điệp (c. 35-37) soi sáng
trước tiên cho việc thụ thai
đồng trinh, và cung cấp một lời đáp có tính
cách Kitô học sâu xa hơn (c.35). Chúa Giêsu sẽ không chỉ
là con của Đấng Tối Cao, Đấng ban cho Ngài
vương quyền của Đavít, mà Ngài sẽ
được gọi là Con Thiên Chúa, bởi vì
được sinh ra do quyền năng của Thiên Chúa qua
tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài là Con Thiên Chúa
bởi vì như Chúa Thánh Thần Ngài sẽ là Thánh,
được dành riêng cho Chúa. Phần Kitô học này
thiết lập một khác biệt chính yếu giữa hai
cậu bé được thụ thai
một cách kỳ diệu: Gioan sẽ là vị tiền hô và
Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh thuộc dòng dõi
Đavít. Còn hơn nữa: trong khi Chúa Thánh Thần tác
động trên Gioan ngay từ trong lòng mẹ, làm cho ông
trở thành vị ngôn sứ duy nhất vô tiền khoáng
hậu (x. 7,26), thì cũng chính Thánh
Thần ấy làm cho Đức Giêsu trở thành một
Đấng hoàn toàn mới lạ do mối dây liên hệ
chặt chẽ với Thiên Chúa.
Sau đó, sứ điệp
từ trời nêu ra (cc. 36-37) một dấu chỉ về
quyền năng Thiên Chúa: bà Êlisabét thụ thai Gioan giống
như điều Kinh Thánh nói về bà Sara thụ thai Isaac
(St 8,14). Và việc sứ thần
nhắc đến tháng thứ sáu (cc. 26.36) cho phép nối
liến chu kỳ của Gioan và của
Đức Giêsu: Êlisabét là một người bà con với
Đức Maria. Thông tin này là một mặc khải từ
trời cho Đức Maria bởi vì Êlisabét vẫn còn
ẩn mình (1,24)
|