Tiếng kêu – ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm
Điểm nổi
bật trong các bài đọc hôm nay là tiếng kêu. Khi
một âm thanh vang động, thì tiếng ấy phải
phát xuất từ đâu, muốn nói gì và cho ai?
Tiếng kếu chúng ta nghe hôm nay phát xuất từ Thiên Chúa
qua Gioan Tiền hô loan báo cho ta một sứ điệp:
"Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước
để dọn đường cho con". Sứ giả
Gioan chính là tiếng kêu trong sa mạc: "Hãy dọn
đường cho Chúa, chỗ quanh co hãy uốn lại cho
ngay thẳng" (Mc 1,1-3).
1. Tiếng kêu của Chúa
Từ ngày xưa
cũng như bây giờ, Thiên Chúa vẫn làm phát xuất
những tiếng kêu: qua các ngôn sứ, qua tiếng
lương tâm và qua cả những trạng huống
của đời sống con người. Những
tiếng kêu bi thiết trầm thống của mọi
thời đại đã vang tới Chúa. Phải
chăng chỉ vì vậy mà Chúa mới nhắn bảo các
sứ ngôn: "Hãy an ủi, hãy an ủi
dân Ta. Hãy nói cho Yêrusalem biết rằng: nó không còn phải
mang kiếp tôi đòi nữa và tội lỗi của nói
đã được tha" (Is 40,2-2).
Vì thế tiếng
kêu của Chúa là một tiếng kêu đặc biệt. Thông thường
khi nói tới tiếng kêu, chúng ta quen nghĩ tới kêu
cứu, kêu gọi, kêu cầu: kêu cứu vì mình đang lâm
nguy; kêu cầu để van xin giúp đỡ; kêu gọi để
nhắc bảo phải làm một cái gì. Tiếng
kêu của Chúa không hàm nghĩa kêu cứu và kêu cầu, mà
chỉ ngụ ý kêu gọi.
2. Chúa kêu gọi ta làm gì?
Để lay
động thức tỉnh ta, bắt ta chú ý và chuẩn
bị đón nhận một sứ điệp. Tiếng kêu của Gioan tiền hô giữa nơi
hoang vắng tiên vàn cũng đánh thức, gây chú ý và quy
tụ dân chúng để nghe ông nói.
Sứ điệp
của ông cũng tương tự như những
điều ngôn sứ trong sách Đệ nhị Isaia đã
nói với dân Dothái vào thế kỷ VI, sau khi họ vừa
thoát khỏi cảnh lưu đày ở Babylon.
Chúa đã thẳng tay trừng trị Giêrusalem, nhưng giờ
đây họ không còn phải làm nô lệ nữa, và tội
lỗi của họ đã được tha thứ.
Phải dọn
đường cho Chúa trong sa mạc. Chỗ gập ghềnh khúc khuỷu hãy uốn
lại cho ngay.
Mọi người
sẽ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa,
vì Người đến với đầy vẻ lẫm
liệt oai phong.
Người lãnh
đạo dân mình như mục tử chăn dắt
đoàn chiên (Is 40,1-5.9-11).
Những năm tháng
lưu đày đã giúp họ hồi tâm lại và nhận
thức lý do đem tới đau khổ là chính tội
lỗi của họ (Is 7,25-28). Từ đó nhóm dậy trong lòng họ những tâm
tình sám hối, dẫn đến quyết định
dứt khoát với tội lỗi.
Khi làm như thế
là họ sửa sang đường lối trong tâm hồn
cho ngay thẳng để đón tiếp vinh quang Chúa
đến. Đó chính là điều các ngôn
sứ nhắm, khi các ngài gióng lên tiếng kêu.
3. Tiếng kêu của Gioan gây nên âm
hưởng nào đối với người Do Thái
đương thời?
Chắc chắn,
tiếng kêu ấy đã khiến họ ngỡ ngàng, băn
khoăn và làm cho họ như phải đối diện
với một số vấn đề thuộc phạm vi
lương tâm và công bình xã hội (Lc 3,7-14).
Họ đã chịu phép rửa sám hối, xin
ơn tha tội để dọn tâm hồn tiếp
nhận Đức Kitô.
Còn đối với chúng ta hôm nay thì sao?
Sứ điệp
của sách Đệ nhị Isaia và của Gioan tiền hô
vẫn thúc bách chúng ta dọn đường cho Chúa trong sa mạc, nhưng là để đón Chúa Kitô
trở lại trong vinh quang. Quả vậy, kinh nghiệm sa
mạc của người Dothái trong biến cố
Xuất hành khỏi Aicập hướng về Đất
Hứa và trên đường hồi cư từ Babylon
trở về Quê Hương vẫn mang một giá trị
hiện thực cho cuộc sống chúng ta hôm nay. Sa mạc trong lịch sử cứu
độ mang những ý nghĩa thần học sâu xa. Chính
trong sa mạc con người chịu thử thách và
phải chiến đấu để trung thành với Giao
ước; cũng chính trong sa mạc, con người
được thanh luyện tinh tuyền để
xứng đáng với Thiên Chúa trong cuộc gặp gỡ
ân tình. Giáo hội hôm nay cũng phải trải qua kinh
nghiệm sa mạc bằng cuộc sống chiến
đấu và thử thách để minh chứng lòng trung
thành với ơn gọi Kitô hữu của mình và
để tự thanh luyện xứng đáng gặp
lại Đức Kitô đến thiết lập Trời
mới Đất mới (2P 3,13).
4. Phải chăng trời mới đất
mới chỉ hình thành trong thời viễn lai?
Ngay từ bây giờ
Trời mới Đất mới xuất hiện khi
mỗi người thi hành sứ điệp dọn
đường cho Chúa và biến cõi đời này thành
nơi đáng sống hơn. Ở đó mỗi ngày một bớt
dần những cảnh bất công tàn ác; ở đó nhân
phẩm được kính trọng và các quyền lợi
căn bản của con người được
bảo đảm; và nhất là ở đó mọi
người được hòa giải với Thiên Chúa và
với anh em đồng loại. Như thế, vinh quang
Thiên Chúa đang xuất hiện giữa thế giới loài
người, vì theo thánh Irênê: "Con
người là vinh quang của Thiên Chúa". Chúng ta không
ngừng xây dựng Trời mới Đất mới
để tiến tới ngày viên mãn rực rỡ lúc mà
Đức Kitô trở lại hoàn tất lịch sử
cứu độ, thu hồi vạn vật về một
mối (Ep 1,10) và trao phó vương quyền cho Thiên Chúa Cha,
để Người trở nên mọi sự trong mọi
người. (1Cr 15,28).
Đó là viễn
tượng giúp ta hiểu đúng câu nói của thánh Phêrô
trong bài đọc thứ 2: "Ngày đó, các tầng
trời sẽ sụp đổ tan tành, lửa,
nước, ánh sáng, gió, mây đều cháy tiêu tan, và trái
đất với tất cả mọi công trình xây dựng
của con người đều bị thiêu
đốt" (2P 3,10). Câu đó có nghĩa là chính
Đức Kitô sẽ dùng năng lực Thánh Thần và
lửa tình yêu nung nấu tất cả, để siêu
thăng và biến đổi chúng nên rực rỡ tốt
đẹp cách nhiệm mầu chứ không hủy diệt
chúng. Đó sẽ là cuộc biến hình hoàn
vũ, mà cuộc biến hình trên núi Tabo là dấu chỉ và
khởi đầu.
Tiếng kêu của
Gioan vọng lại tiếng kêu của Thiên Chúa trong
lịch sử cứu độ, đang gọi ta
đứng dậy, ngước mắt nhìn lên và
hướng về tương lai. Viễn
tượng Chúa đến trong vinh quang đem lại cho ta
niềm tin, phấn khởi trong cuộc hành trình qua sa mạc của đời sống hiện
tại.
Vì thế, tiếng
kêu của vị tiền hô là một tiếng kêu mang
đầy Hy Vọng và Niềm Vui.
]]]
BÀI GIẢNG
Chúa nhật hôm nay có
thể gọi được là Chúa nhật của vị
Tiền Hô, của Gioan Tẩy giả, của "tiếng
kêu" dọn đường Chúa đến, và như
thế là Chúa nhật của niềm trông đợi
chứa chan hy vọng.
Chúng ta ngày nay, xét
về mặt xã hội, không còn như Israel ngày
xưa.
Dân Chúa bấy giờ đang lầm than trong
cảnh nô lệ lưu vong. Nhưng xét
về nhiều phương diện khác, đời
người luôn luôn có những khổ sở. Và
chẳng bao giờ nhân loại thấy đã thoát khỏi
lầm than, đau đớn... Luôn luôn chúng ta
có một số vấn đề không làm đau khổ
thể xác thì cũng làm khắc khoải tâm hồn. Và cái khổ là bao giờ những khó khăn
hiện tại đối với tâm lý, cũng vẫn là
những gò bó khó chịu nhất mà chúng ta muốn cựa
quậy, giũ đi cho bằng hết. Trong hoàn
cảnh đó tiếng kêu của vị Tiền hô đang
muốn khơi lại niềm tin hun đúc niềm
cậy, để mọi người chúng ta tìm lại
được tinh thần chứa chan hy vọng do Tin
Mừng cứu độ mang tới.
Gioan không bịa ra
những nguồn tin giả dối, trần tục, vô
căn cứ và miễn cho ta những nỗ lực chính
đáng. Chính ông cũng không tự xưng là
người sẽ giải thoát anh em. Ông
chỉ cho chúng ta thấy Đấng Cứu thế đích
thực, là Đức Yêsu Kitô. Nói đúng
hơn, khi rao giảng, ông bảo mọi người hãy
trông cậy vào Đấng sẽ đến sau,
Đấng chưa ai thấy, nhưng chắc chắn
sẽ đến mà ông chẳng đáng cúi xuống cởi
dây giày Người. Gioan không nói viển
vông. Đặt niềm tin ở Sách Thánh, căn
cứ vào mạc khải của Thiên Chúa, Gioan khẳng
định Đấng Cứu thế không phải là phàm
nhân, không hành động như các vĩ
nhân trong lịch sử. Ngài đến chăn dắt
đoàn chiên mình như mục tử; Ngài ẵm chiên con trên
cánh tay; ôm ấp chúng vào lòng và nhẹ tay
dẫn dắt các chiên mẹ.
Đấng Cứu
thế chúng ta trông đợi là như thế. Ngài
không có những toan tính trần gian. Ngài là một
mục tử hiền lành săn sóc từng con chiên và
cả đoàn chiên. Vì thế, chúng ta hãy trút
bỏ não trạng trần tục khi khắc khoải
đợi chờ Đức Kitô trở lại. Trong bất cứ thử thách nào Đấng
Cứu chuộc chúng ta vẫn là Chúa, vì chỉ có Ngài
mới đáp ứng được niềm trông cậy
của ta.
Niềm trông cậy
ấy tạo nên ở nơi ta một thái độ,
một tác phong, một nếp sống đặc biệt. Khi người ta ao
ước những sự hão huyền hay chờ
đợi những giải pháp trần tục,
thường người ta dành công việc cứu thế
cho người khác; còn chính bản thân người ta
chỉ thụ động ỷ lại và biếng nhác. Ngược lại, khi rao giảng Đấng
Cứu thế là ai, thì Gioan cũng vạch ra cho mỗi
người con đường phải sửa soạn có
thể tiếp một vị cứu tinh như thế.
Người sẽ rửa ta trong Thánh Thần. Người
sẽ thánh hóa tất cả những ai sẵn sàng. Thế
nên hết mọi người phải ăn năn
thống hối, phải thú tội và sửa lại
đường lối xưa nay. Không còn
được sống quanh co, lúc thế này khi thế khác.
Phải trước sau như một, thi hành
một đòi hỏi của sự thánh thiện. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ
tốt đẹp với tha nhân, phải bạt xuống
và san phẳng đi, để tình người và lòng bác ái
cứu độ của Đức Kitô đến với
hết mọi người. Có như
vậy, xã hội mới dần dần huynh đệ
hơn, tốt đẹp hơn và chúng ta mới nhìn
thấy ơn cứu độ của Chúa trải rộng
trên khắp mặt địa cầu.
Không những rao
giảng, Gioan còn sống cuộc đời sám hối. Ông ăn
châu chấu và uống mật ong rừng. Ông
mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da
thú. Ông sống như các thánh nhân thời bấy
giờ: không quan tâm đến việc trang điểm
bằng các sản phẩm mỹ nghệ, không ăn dùng như những người
tưởng chỉ có các thú vui ở đời này. Ngược lại, ông thấy hạnh phúc trong
nếp sống gần thiên nhiên, thấy thiên nhiên như
tiếng gọi trở về đời sống chất
phác và chân thật. Ông coi cuộc
đời phù phiếm như đã qua, và trông đợi
Trời mới và Đất mới trong đó có công lý
sẽ ngự trị.
Tất cả chúng ta
không đang được kêu gọi đi vào một
nếp sống cụ thể như thế sao? Cả
một lối sống phù phiếm như đã qua rồi.
Những giờ lao động tiếp
xúc với thiên nhiên như đang khiến ta có một
nhân-sinh-quan mới: chân thật và đơn sơ hơn. Nhiều nhân đức Phúc Âm như đang có
cơ hội được thực thi dễ dàng hơn
trước. Chúng ta phải bắt
lấy thời cơ, nhờ ơn từ trời
xuống, giúp nhau sám hối và đổi đời. Làm được như vậy, là đang san
phẳng đường đi cho Chúa đến. Nói đúng hơn, Thánh Thần Chúa ở trong ta
đang muốn dùng ta để thay đổi mặt
đất này cho công lý ngự trị.
Thánh Thể mà chúng ta
cử hành bây giờ cũng chỉ muốn thực
hiện những điều đó. Đức Kitô
cứu thế mời ta góp phần đời sống sám
hối canh tân của chúng ta vào mầu nhiệm Tử
nạn của Người, để ơn Phục sinh của
Người tràn vào tâm hồn và đời sống chúng ta,
dùng nếp sống đổi mới hằng ngày của
ta, canh cải mặt đất này tạo nên một
Trời mới Đất mới cho tất cả mọi
người.
Xin anh em hãy hết
mình đi vào mầu nhiệm bàn thờ với những tâm
tư quyết liệt như thế.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời
Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn
Sơn Lâm)
|