Tỉnh
thức – ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm
(Trích dẫn từ tập sách ‘Giải
Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Mở đầu
niên lịch Phụng vụ, ba bài đọc Thánh Kinh
của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng năm nay phác
họa lại cho chúng ta một vài thái độ trong khung cảnh
sống của Dân Chúa: ngay giữa đêm tối của
thử thách, nghi ngờ, phấn đấu, tội
lỗi, Dân Chúa đã cùng nhau tự thú những lỗi
phạm của mình, cương quyết sống trung kiên
mong chờ ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu Kitô trong niềm tin
tưởng và thái độ tỉnh thức.
Quả vậy, bài
đọc Isaia 63,16-64,7 trình bày lại bối cảnh
của đoàn dân Thiên Chúa sau thời Lưu đày. Kinh
nghiệm ê chề của những năm tháng sống
kiếp nô dịch trên phần đất ngoại bang
đã đem lại cho họ một ý thức tập
thể về những lỗi phạm của mình. Họ
ngước mắt nhìn về Thiên Chúa là Cha để
thốt lên lời khẩn nguyện: "Ôi phải chi
Người xé trời ngự xuống, thì núi non cũng
sẽ tiêu tan trước Nhan Ngài". Tâm trạng hối
lỗi và tha thiết khẩn nài ơn cứu độ
đã giúp Dân Chúa nhận định lại ơn gọi
của mình để sống trọn vai trò chứng nhân
trung thành giữa muôn dân qua thân phận mỏng dòn và hèn
yếu của cuộc sống con người.
Bảy thế
kỷ sau, khoảng 25 năm sau ngày Đức Kitô về
trời, thánh Phaolô cũng đã nhắc nhở lại
ơn gọi thực sự của người Kitô
hữu: không những chỉ ý thức những sai lỗi
của mình, nhưng còn phải sống vươn lên mong
chờ ngày Đức Kitô trở lại. Các
cộng đoàn tín hữu tiên khởi đã sống trong
hoàn cảnh hồi hộp, nao nức mong chờ ngày
trọng đại đó. Những lời nguyện:
"Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy trở lại" (1Cr 16,22) càng đặt họ vào tâm trạng xao
xuyến và đầy xúc động. Ngài ở đây! Ngài
ở kia! (2Th 2,2). Và có
khi vì mỏi mệt đợi chờ, họ đã không
ngần ngại thốt lên: "Có lẽ Ngài đến
chậm".
Tâm trạng khắc
khoải đó cần bắt gặp được
một cái gì vững chắc củng cố lòng tin
tưởng: nếu không, thái độ tỉnh thức
mong chờ của họ sẽ hão huyền, ảo
vọng.
Quả vậy,
mỗi lần cử hành nghi lễ bẻ bánh, cộng
đoàn dân Chúa vẫn long trọng tuyên xưng lại
niềm tin của mình:
"Lạy Chúa, chúng
con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng
việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến".
Nỗi lòng mong
chờ khắc khoải đó như được xoa
dịu và soi sáng bởi lời Đức Kitô trong
đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô 13,33-37.
Ngài như một chủ nhà phải ra đi,
vắng xa và vắng lâu. Sau khi trao phận sự
quản lý cơ nghiệp cho gia nhân, mỗi người theo chức vụ của mình, Ngài đặc
biệt tín cẩn và căn dặn người canh cửa:
"Hãy tỉnh thức". Phải, hãy
tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ.
Cuộc tái ngộ có thể xảy ra một cách rất
bất ưng vào một lúc nào đó trong ban đêm. Gia nhân
và nhất là người canh cửa phải tỉnh
thức, luôn sống trong ánh sáng ban ngày để không ngái
ngủ, không thất hứa với chủ nhà trước
lúc ra đi.
Đặt
đoạn văn trên vào khung cảnh lịch sử
cứu độ, giữa ngày về trời và ngày trở
lại của Đức Kitô, chúng ta có thể nói, thái
độ tỉnh thức đó chính là thái độ
của Giáo hội, của toàn dân Chúa và nhất là của
những người hữu trách các cộng đoàn.
Nhưng tại sao
phải tỉnh thức?
Vì trước tiên,
đó là ý muốn, là mệnh lệnh của chủ nhà. Để cho
cửa nhà êm ấm, an toàn và
trường tồn, phận sự của người
canh cửa, không phải chỉ lo bảo vệ ngôi nhà, mà
còn phải lưu tâm đến những người
sống trong đó.
Ngoài ra, tỉnh
thức còn là thái độ của một gia nhân trung thành
đối với người đã tín nhiệm, ủy
thác trách vụ cho mình. Và chắc chắn niềm vui của
ngày tái ngộ sẽ trọn vẹn nếu chủ nhà
gặp được gia nhân trong tư thế đợi
chờ và sẵn sàng.
Hơn thế
nữa, tỉnh thức cũng là để khỏi rơi
vào giấc ngủ! Mà thường người ta chỉ
ngủ lúc ban đêm, trong bóng tối! Theo nghĩa Thánh Kinh, ban
đêm, bóng tối, gợi lên cho chúng ta hình ảnh một
môi trường đầy nguy hiểm, đầy thử
thách. Bóng đêm đối nghịch lại ánh sáng ban ngày. Đó là chiều kích thử thách của cuộc
sống. Nó đưa đến tội lỗi,
đau khổ, sự dữ... Nó đưa đến sa ngã, nản chí, nghi ngờ. Người canh
cửa có thể bội phản người thân xa
vắng, để chạy theo những
quyến rũ của kẻ khác, của ngẫu
tượng đồng lõa với bóng đêm.
Và tỉnh thức
như thế nào?
Phải chăng là
thắp đèn ngồi chờ? Là sống trong tâm trạng viễn vông!
Không! Đọc lại Thánh Kinh và lịch
sử dân Chúa, chúng ta thấy việc tỉnh thức
đợi chờ không phải là một thái độ
thụ động. Nhưng là một hành vi ý thức của người hiểu
biết lý do.
Vì thế, thái
độ tỉnh thức của Giáo hội và đặc
biệt của những người hữu trách dân Chúa
phải sống động và đầy tính chất sáng tạo.
Đó là thức tỉnh hiệp thông với
người bạn của mình. Đó là
thái độ của một người bạn trung thành,
cởi mở để luôn lắng nghe lời nói của
bạn mình. Như thế, tỉnh
thức đối với Giáo hội, có nghĩa là không
ngừng chiến đấu để sinh tồn,
để trung thành với Lời Chúa. Dầu
xa vắng, nhưng hầu như tiếng nói, lời
hứa và sự hiện diện của Ngài luôn xoáy
động trong lòng Giáo hội và chi phối mọi sinh
hoạt của dân Chúa. Với ánh đèn soi sáng và
sưởi ấm đó, Giáo hội như có một
nghị lực để cảm thông và tìm ra
được ý muốn của Ngài qua mọi biến
cố trong cuộc sống, qua mọi dấu chỉ thời
đại.
Sự đối
nghịch giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên trong tâm
hồn mỗi người và trong đời sống Giáo
hội một sự giằng co căng thẳng, mà chúng ta
phải dùng như một đà tiến để
vươn lên, Giáo hội có phận sự rút kinh nghiệm
từ các sự kiện xảy ra trong lịch sử quá
khứ và hiện tại để sửa chữa lỗi
lầm, tự thanh luyện mình để tiến tới
sự hoàn thiện như Chúa Kitô mong muốn. Đặc biệt
Giáo hội phải sẵn sàng từ bỏ địa
vị ưu thế trong xã hội để chấp
nhận thân phận đầy tớ phục vụ
chủ nhà mình và anh em.
Để tỉnh
thức chờ Chúa đến, Giáo hội phải nhẹ
lòng đối với của cải trần thế và
dứt khoát với những quyến rũ
của các ngẫu tượng. Khi làm như thế, Giáo
hội thực sự đang cầm đèn trong tay sẵn sàng đợi Đức Kitô, vì
ngày trở lại của Ngài sẽ xảy tới bất
chợt.
Đồng thời,
nếp sống của Giáo hội sẽ là ánh sáng thức
tỉnh mọi người để họ nhận ra
Đức Kitô là Đấng Cứu Thế đích
thực. Giáo hội đang mang trong lòng
sức sống và động lực thúc đẩy chính
mình và cả thế giới tiến lên gặp Đức
Kitô. Thế nên, tỉnh thức là phận sự
cần thiết của những con người chứng
nhân cho ánh sáng. Và Giáo hội phải là kho dự trữ
sức sống phong phú và sung mãn chuẩn bị cho mọi
người đón nhận thời viễn lai. Vì thế, khi hướng về ngày Chúa Kitô
trở lại, Giáo hội quả là niềm hy vọng cho
toàn thể thế giới và vũ trụ.
BÀI GIẢNG
1. Đời sống con người, có
thể nói, bao giờ cũng bao hàm một khía cạnh
đau thương khổ sở. Không
phải chỉ thời nay mới khổ; thời
trước cũng đã khổ rồi và bao lâu còn
sống ở trần gian thì con người vẫn
phải chịu đựng hy sinh và đau khổ. Bài sách Isaia chúng ta đọc hôm nay, đã
được viết ra sau thời dân Dothái bị lưu
đày bên Babylon. Bài sách ấy cho ta
thấy rằng: tuy hết bị lưu đày, nhưng dân
Dothái vẫn tiếp tục gánh chịu đau khổ.
Điều làm cho họ đau khổ nhất, chính là họ
nhận thức ra rằng họ đã "đi lạc xa
đường Chúa", đã "phạm tội" và
"đã bị phó mặc cho quyền lực tội
lỗi".
Tội lỗi
của con người, đó chính là nguyên nhân sâu xa gây nên
mọi đau khổ. Bài sách Isaia hôm nay thôi
thúc ta nhìn vào khổ sở hiện tại như là
tiếng gọi cảnh tỉnh ta nhận thức tội
lỗi của mỗi người và của cả nhân
loại để mau hoán cải trở về với Thiên
Chúa. Ngài là Cha yêu thương, là
Đấng cứu độ nhân từ và luôn luôn trung thành
với lời Ngài đã hứa.
Những khó khăn
kinh tế hiện nay cũng gây nên cho ta những khổ
sở, nhưng ta nên biết rằng đó là hậu
quả không thể tránh được của một
nước vừa bị 30 năm chiến tranh tàn phá
như nước ta. Và chúng ta, người công giáo
còn phải nhìn nhận như dân Chúa thời xưa "Này
Chúa thịnh nộ vì chúng tôi đã phạm tội".
Với ý chí đổi đời và cải tạo, với
quyết tâm từ bỏ mọi ích kỷ cá nhân, mọi
tham lam và hận thù, Chúa sẽ ban cho ta nguồn nghị
lực mới để xây dựng một xã hội
tốt đẹp và huynh đệ hơn.
2. Trong công cuộc này, chúng ta hãy lắng nghe
những lời đầy an ủi trong
thư thánh Phaolô: "Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho
anh em, vì anh em được đầy tràn mọi ơn,
trong khi mong chờ Đức Kitô lại đến". Thánh Phaolô ảo tưởng, không nhìn thấy
thực tế sao? Ngài không ảo
tưởng. Ngài biết rõ các giáo
đoàn của ngài. Họ là dân không giàu
có, không thế lực. Nhưng hết
thảy họ là những người được kêu
mời hiệp nhất với Con Thiên Chúa, là Đức
Giêsu Kitô. Phải, chúng ta là những con người
như thế. Chúng ta đừng chỉ nhìn vào đời
sống vật chất của mình để thấy xót xa
vì thiếu thốn, nhưng còn phải biết nhìn vào tâm
hồn, vào tinh thần, vào thiên chức được làm
con cái Thiên Chúa, được vinh dự phát huy tình yêu
của Ngài đối với trần gian.
Chúng ta cũng hãy hãnh
diện, tin vào ý kiên trì của dân tộc Việt Nam trong quá
khứ, đã khắc phục được bao khó khăn
để vươn lên trong tư thế độc
lập tự do, thì trong tương lai cũng sẽ thành
công trong việc xây dựng một nước Việt Nam
thống nhất, ấm no và có tình yêu thương giữa
mọi người đồng bào cùng máu mủ.
3. Mùa Vọng nhắc lại cho ta cả hai
chân lý ấy, một đàng dân Chúa như đang lầm
than khổ sở, nhưng đàng khác cũng chính dân ấy
đã được bảo đảm một tương
lai tốt đẹp, trước hết theo ý nghĩa tinh
thần, nhưng sau đó cũng kèm theo tất cả
mọi khía cạnh được Chúa thánh hóa để làm
nên hạnh phúc toàn diện cho con người. Thế nên, Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay
dạy ta hãy tỉnh thức đừng mê ngủ.
Những than vãn, thở dài, chỉ làm cho thân xác rũ xương và đời sống
trở nên đen tối. Trái lại, nếu
tỉnh táo, nhìn về tương lai với niềm tin
vững mạnh, thì một chân trời mới đang
dần dần mở ra trước mắt ta.
Người tín
hữu cũng sống trong trần gian và phải hy sinh gian
khổ như mọi người. Nhưng nhờ
niềm tin như đèn sáng trong tay, chúng
ta là những người đang tỉnh thức chờ
Đức Kitô trở lại: Ngài là Chúa đem lại hòa
bình, là Đấng cứu độ trần gian. Thế
nên, lòng ta tràn đầy hy vọng và ta có phận sự
chiếu tỏa niềm hy vọng phấn khởi ấy chung quanh ta.
4. Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng
niềm tin của Giáo hội chúng ta, trước khi đem
cuộc đời lam lũ đặt vào đĩa thánh,
hiến dâng sự sống và con người của ta cho
vinh quang Nước Trời mà Chúa đang dành cho các con cái
của Người.
|