Google Search
Local Search
|
|
Bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Thái Bình
|
Bổ nhiệm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Xin mời nghe proshow "Lời Gọi Fatima" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
Xin chia sẻ cùng quí cha, thày và anh chị proshow "Danh Thánh Đức Maria" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Nỗi Buồn Của Người Việt Già Ở Nursing Home
|
|
Thứ Tư, Ngày 26 tháng 11-2014
|
Nỗi buồn của người Việt già ở Nursing Home
Theo một thống kê của Cơ quan an sinh xã hội bang
California, Mỹ, trong tổng số 400 nghìn người Việt hiện đang
sinh sống ở miền Nam California, có khoảng 15 nghìn người trên
65 tuổi. 1/3 ở chung với con cháu. Số còn lại, ở trong các viện
dưỡng lão (nursing home). Vẫn theo thống kê này, những người
Việt già trên đất Mỹ rất sợ bị đưa vào nursing home!
1. Xế chiều 29 tháng Chạp, tôi lái xe đến Viện Dưỡng
lão thành phố Westminster, Orange County. Đây là cơ sở được xem
như khá nhất trong số những viện dưỡng lão tại miền Nam Cali. Vì
là ngày giáp tết nên quang cảnh khá lặng lẽ. Ở các lối đi trong
khu vực dành cho người Việt, trên những băng ghế đặt rải rác
dưới những tàn cây, không có cụ nào tản bộ hay ngồi nghỉ chân,
trò chuyện. Bãi đậu xe cũng chỉ thấy lác đác vài chiếc của nhân
viên trực. Nhìn qua khu dành cho người Mỹ, người Hàn Quốc và khu
dành cho người Mexico thì đông người hơn. Có lẽ họ không biết
hôm nay là giao thừa của người Việt. Vào trong,
tất cả đều vắng vẻ. Một lát, tôi mới thấy một y tá đẩy chiếc xe
lăn, trên đó là một cụ ngoẹo đầu, mắt nhắm nghiền, rớt dãi chảy
dài xuống khóe miệng. Trước cửa phòng số 6, một bà ngồi im lìm
trên chiếc ghế nhựa, nét mặt thẫn thờ. Tôi hỏi: "Bà có con cháu
vào thăm chưa?". Nhìn tôi một lát, bà lắc đầu kèm theo tiếng thở
dài mệt mỏi. Tên bà là Trần Thị Nghị, 74 tuổi. Bà
sang đây theo diện bảo lãnh của đứa con trai. Bà kể: "Hồi đầu,
mọi sự tốt đẹp lắm. Nhưng được vài năm, con dâu tôi nói tôi ở dơ
vì lúc đứa cháu nội bị sổ mũi, tôi lấy tay bóp mũi, vắt nước mũi
cho nó. Bực mình quá, tôi nói hồi nhỏ tao cũng hay vắt nước mũi
cho chồng mày vậy, mà có sao đâu! Thế là nó cấm tôi không được
đụng đến con nó nữa. 3 tháng sau, chồng nó nghe lời nó, đưa tôi
vào đây".
Ở
một phòng khác, cụ ông Nguyễn Văn Đức, 71 tuổi, nằm co quắp trên
giường. Hỏi ra mới biết cụ bị bệnh suyễn. Đưa tay chỉ một hộp
bánh, 2 hộp mứt, 2 hộp kẹo nằm chỏng chơ trên bàn, cụ phều phào:
"Cái này con tôi cho, cái kia là của hội thiện nguyện, còn hộp
đó là quà tặng của nhà chùa". Theo tập quán người
Việt, một gia đình mà 2, 3 thế hệ gồm ông bà, cha mẹ, con cháu
cùng ở chung với nhau thì được xem như gia đình hạnh phúc, ăn ở
có đức, có hiếu. Nhưng người Mỹ nói riêng và người phương Tây
nói chung, với bản tính thực tế thì họ lại không nghĩ vậy bởi lẽ
ngay từ khi còn trẻ, họ đã được học tính tự lập - và điều này đã
tác động rất lớn đến thế hệ người Việt thứ 2, thứ 3 - là những
người sang Mỹ từ khi còn bé, hoặc sinh ra trên đất Mỹ. Họ hầu
như ít nói tiếng Việt mà chỉ dùng tiếng Mỹ - ngay cả khi về
nhà.
Phần lớn họ chịu ảnh hưởng nặng của
lối sống Mỹ: 18 tuổi là ra ở riêng, cha mẹ già thì đưa vào viện
dưỡng lão. Sự thành công về mặt học vấn, tài chính đã khiến họ
chẳng còn quan tâm nhiều đến quá khứ của cha ông. Nếu như ở Việt
Nam, con cái thường ngồi im nghe cha mẹ giáo huấn - dù ngồi một
cách miễn cưỡng - thì ở Mỹ, phần lớn người Việt thế hệ thứ 2,
thứ 3 lại chọn cách bỏ đi ra ngoài, không cần quan tâm đến những
gì cha mẹ mình đang nói, dẫn đến xung đột... Sự xung đột lắm khi
chỉ bắt nguồn từ một nguyên nhân nhỏ nhoi nhưng không được giải
quyết thấu đáo, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm
trọng.
Bà Lý Thị Vân, 69 tuổi, nằm tại
phòng số 3, nói: "Có những điều ở Việt Nam coi là bình thường
thì qua đây lại trở thành bất bình thường. Trong một bữa ăn
chẳng hạn, lúc tôi dùng cái muỗng của tôi để múc canh trong tô
canh thì thằng con rể tôi trợn mắt nhìn tôi rồi từ đó đến cuối
bữa, nó không đụng vào tô canh đó
nữa!".
Vì
vậy, với những người Việt cao tuổi ở miền Nam Cali, ba chữ "viện
dưỡng lão" từ lâu đã là cơn ác mộng. Nó đánh thốc vào tim tạo
thành những cơn kinh hãi, đến độ đã có một cụ quỳ sụp xuống ngay
trước cổng vào viện dưỡng lão, chắp tay vái con ruột mình: "Ba
lạy con, con cho ba về nhà, ba trải ghế bố nằm trong gara cũng
được chứ con đừng bắt ba vô đây". Ông Trần Ngọc Lâm chẳng hạn,
khi tôi hỏi vợ con ông ra sao, có thường xuyên vào thăm ông
không thì ông bực bội: "Làm ơn đừng nhắc đến vợ, đến con tôi
nữa. Vợ, con mà để tôi sống như thế này à?".
Ông Lê Cẩm, ở phòng số 9 trong viện dưỡng lão, kể:
"Năm tui 68 tuổi, đi đứng bắt đầu yếu, mắt mờ, tay run, con trai
tui nói mai đưa ba vô nursing home. Tưởng nó giỡn chơi, ai dè
sáng hôm sau nó đưa tui vô thiệt. Tui hỏi nó sao con nỡ lòng nào
mà làm vậy. Nó nói tỉnh bơ: Già rồi thì vô viện dưỡng lão chứ
làm vậy là làm sao!". Hỏi ông có biết mai là tết âm lịch cổ
truyền không? Ông nói biết vì ba bữa trước, con ông vô thăm, có
đem cho mấy hộp mứt. Trên gò má nhăn nheo của ông bỗng lăn dài
những giọt nước mắt: "Tết nhất là ngày sum họp gia đình. Vậy
mà…".
2.
Công bằng mà nói, sự sợ hãi viện dưỡng lão của các cụ cao niên
người Việt - ngoài việc bị tách ra khỏi môi trường gia đình quen
thuộc - mà hầu hết các cụ đều nghĩ rằng mình bị bỏ rơi, bị con
cháu hắt hủi, thì còn một nguyên nhân nữa. Đó là khi tuổi tác đã
cao, sức khỏe các cụ cũng sẽ xuống và bệnh tật ắt phải tới.
Chuyện không thể tự chăm sóc cho mình là lẽ đương nhiên khi bệnh
trạng các cụ tới thời kỳ nghiêm trọng, và cách giải quyết duy
nhất là đưa các cụ vào viện dưỡng lão. Anh Kevin
Nguyen, có người mẹ 72 tuổi, hiện đã ở viện dưỡng lão, nói: "Tôi
và vợ tôi đều phải đi làm, hai đứa con đi học nên không lấy đâu
ra thời giờ chăm sóc mẹ tôi. Còn nếu mướn y tá hay điều dưỡng
đến nhà ăn ở, nấu nướng và chăm sóc mẹ tôi thì tôi không đủ
tiền".
Một trong những nguyên nhân
nữa dẫn đến việc các cụ buộc phải vào viện dưỡng lão. Đó là về
già, các cụ thường bị lẫn, mất trí nhớ, thậm chí không nhận ra
vợ (hoặc chồng) hay con cái, không cho họ tới gần. Anh Kevin
Nguyen, nói tiếp: "Mẹ tôi đổi tính, trở nên khó chịu. Cụ luôn
gắt gỏng, nghi ngờ tất cả mọi người".
Chị Lam Hương, có mẹ cũng ở viện dưỡng lão tâm sự:
"Cụ nhà tôi lúc nào cũng nghi ngờ có người ăn cắp tiền của cụ
mặc dù tiền đó là của con, cháu cho. Ngày nào cũng vậy, cụ lôi
túi tiền ra đếm vài chục lần rồi cũng không dưới chục lần, cụ
chửi um lên, bỏ ăn, thậm chí cuốn quần cuốn áo đòi ra khỏi nhà
vì "nhà này toàn quân ăn cắp". Riết rồi không ai chịu nổi nữa,
chúng tôi đành đưa cụ vào viện".
Nỗi sợ phải vào viện dưỡng lão còn có một lý do khác: Đó
là nhân viên của nhiều viện dưỡng lão thiếu khả năng chuyên môn,
thiếu sự nhiệt tâm và không được huấn luyện kỹ lưỡng, cộng với
sự cắt giảm tài trợ của chính quyền do thiếu hụt ngân quỹ dẫn
đến số người bị ngược đãi, bị bỏ mặc trên cả hai phương diện
sinh lý lẫn tâm lý càng ngày càng tăng, chưa kể có cụ còn bị bắt
phải nín lặng, không được phép than phiền, kêu cứu khi lên cơn
đau dạ dày hay đau khớp.
Cụ ông
Trần Văn Sinh, trước khi sang Mỹ là y tá ở Bệnh viện Bình Dân,
TP HCM, nói: "Một thời gian dài, tôi bị trầm cảm vì tuyệt vọng,
và tôi được cho uống thuốc an thần một cách rất thản nhiên. Khi
tôi báo cáo việc này với ban quản trị, thì con tôi lúc vào thăm
đã bị ngăn chặn với lý do là làm trở ngại việc điều hành".
Theo tìm hiểu của tôi, Viện Dưỡng lão thành phố
Westminster có khoảng 90% là người già trên 65 tuổi. Số còn lại
là từ 80 tuổi trở lên. Cũng xin nói thêm là ở Orange County, các
viện dưỡng lão đều do người Mỹ làm chủ và điều hành. Nó thường
được chia làm hai khu chính là nội trú và bán trú cùng nhiều khu
phụ. Khu nội trú dành cho các cụ ở thường trực. Khu bán trú dành
cho những bệnh nhân sau khi điều trị ở bệnh viện nhưng không đủ
tiền để nằm lại vì viện phí rất cao, nên phải chuyển vào viện
dưỡng lão để nằm chờ, lúc bình phục họ sẽ về nhà.
Thường thì nhân viên quản lý sắp xếp
các khu theo sắc tộc, như khu dành cho người da trắng, khu cho
người Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan v.v... Nếu thiếu
phòng, các cụ phải nằm bất cứ khu nào còn trống. Chả thế mà cụ
bà Lê Thị Lài, 67 tuổi, sau hơn 2 tháng ở chung với khu người Mỹ
da đen rồi lúc được chuyển sang khu người Việt, cụ ngơ ngác như
người tâm thần, hỏi gì cũng ú ớ. Nếu người Việt vào đông, các cụ
được nhà bếp nấu riêng món ăn Việt nhưng chỉ vào buổi trưa và
buổi tối, còn bữa sáng vẫn phải ăn món ăn Mỹ. Hầu hết những
trường hợp được đưa vào đây là do bệnh lý, đòi hỏi phải có sự
trợ giúp thường trực của nhân viên y tế cùng các thiết bị mà chỉ
các viện dưỡng lão mới có khả năng cung cấp. Những người này
thường mắc phải những bệnh gây mất năng lực về thể chất lẫn tinh
thần, hoặc họ yếu đến nỗi không thể di chuyển, tự tắm rửa hay tự
ăn uống được.
Trao đổi với tôi, phóng viên Vince Gonzales thuộc Đài
CBS, người đã làm những phóng sự về vấn đề ngược đãi người già ở
các viện dưỡng lão cho biết: "Nhiều người trong số họ cần có sự
chăm sóc suốt đời vì họ không bao giờ có thể hồi phục để có thể
tự chăm sóc cho mình, chứ đừng nói là cho về nhà. Tương lai của
họ một là sẽ chết trong viện dưỡng lão, hai là chuyển vào bệnh
viện nếu bệnh nặng rồi chết ở đó và ba là bệnh viện trả về để
chờ chết…".
3. Đã đến bữa cơm
chiều. Những cụ còn khỏe thì chậm chạp lê bước, hoặc tự mình lăn
xe xuống nhà ăn. Yếu quá thì nằm trong phòng, chờ điều dưỡng
mang thức ăn đến. Cô Jenny Pham, một điều dưỡng người Việt ở
đây, cho biết: "Viện có rất ít điều dưỡng Việt Nam nên tụi em
thường bị điều đi phục vụ toàn khu, chứ không cứ gì khu người
Việt". Theo luật riêng của tiểu bang California, mỗi viện dưỡng
lão phải có đủ nhân viên săn sóc cho bệnh nhân, nhất là các dịch
vụ khẩn cấp, mỗi bệnh nhân phải được y tá săn sóc ít nhất 3 hoặc
2 tiếng mỗi ngày. Ỷ
Jenny
Pham nói tiếp: "Khi có đoàn kiểm tra, viện dưỡng lão thuê mướn
thêm điều dưỡng cho đông đủ, đồng thời sắp xếp cứ 1 điều dưỡng
chăm sóc cho 10 người theo luật định để che mắt. Khi đoàn kiểm
tra đi, mỗi đứa tụi em lại phải chăm sóc cho 19, 20 người…". Tôi
hỏi: "Mấy hôm nay, gia đình các cụ vào thăm có nhiều không?".
Jenny Pham đáp: "Cũng ít thôi, chủ yếu là các hội đoàn thiện
nguyện, các tổ chức tôn giáo. Em biết có 26 cụ từ ngày vào đây,
có cụ ở đã 5 năm nhưng chưa thấy ai đến thăm lần nào".
Tôi hỏi: "Đêm giao thừa có tổ chức gì
không?". Jenny Pham lắc đầu: "Dạ không, mấy cụ còn khỏe, còn
minh mẫn thì tụ họp nhau lại uống trà, nói chuyện hồi xưa. Còn
hầu hết đều nằm trên giường. Nhiều cụ khi em hỏi ngày mai là
mùng 1 tết rồi, biết không? Có cụ nhe răng cười, chẳng biết gì
hết". Tôi ra về và lúc bước ngang phòng số 7, một
đôi vợ chồng trẻ cùng hai đứa con đang đứng cạnh một cụ già ngồi
trên xe lăn. Người phụ nữ nói: "Chào ông nội đi rồi về con". Ông
cụ miệng méo xệch: "Bay cho nó ở chơi thêm chút nữa, vừa mới vô
mà". Anh con trai đỡ lời: "Con đưa các cháu vào chúc tết ba, bây
giờ dẫn tụi nó đi coi xiếc cá heo. Vé mua rồi, sắp tới giờ diễn
rồi…".
Dẫu
biết ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, sống đâu theo đó, nhưng sao
tôi vẫn thấy nao lòng vì ở quê nhà giờ này, gia đình nào chắc
cũng đang quây quần, sum họp…
Cõi Vô Cùng
CHƯƠNG
II
" Hồn tuyệt vọng nhìn lên tường mờ
tối,
Thấy bóng mình run rẩy giữa lá
hoa,
Buồn mênh mông nên hình ảnh nhạt
nhòa,
Hoa với lá chỉ một màu trắng
đục."
Trần Hồng Văn
Hôm ấy
là một tối mùa Ðông, trời lạnh lắm và trăng rất sáng, ông nhà
văn trút hơi thở cuối cùng trong yên lặng. Từ đầu mùa thu trước,
nay đã sang mùa Ðông thứ hai, một thời gian khá dài để ông nằm
suy nghiệm cuộc đời, và vợ ông đã quá mệt mỏi với những cơn trở
bệnh của chồng. Cái gì cũng trở thành thói quen, cho dù sự
đau khổ cũng không làm người ta băn khoăn bao
nhiêu.
Lúc ấy
cả nhà đang dùng bữa cơm tối, mọi sinh hoạt trong gia đình vẫn
bình thường. Hai vợ chồng thằng con trai đi làm về muộn đã ăn
cơm xong, rút lên lầu xem TiVi. Người vợ đi đứng nhẹ nhàng đóng
cửa phòng người bệnh, yên chí là cái xác ấy còn thở, và bà đang
trông chừng hai đứa cháu vừa ăn cơm, vừa cãi
nhau.
Thật là
một cái chết nhẹ nhàng của một con người có tâm hồn bình yên,
suốt cả đời chỉ dùng ngòi bút để gửi gấm cho đời những điều tốt
đẹp. Vả lại, chẳng ai biết mình ra đi lúc nào, bằng cách
nào. Ông may mắn lìa đời lặng lẽ, có người còn giẫy giụa, la
hét, chân tay co quắp như lên cơn động kinh trước khi chết. Ông
thỏa được ý nguyện là sự ra đi của mình không làm kinh động
người khác, cho nên, khi cái bóng người xưa đứng bên cửa sổ đợi
chờ, giơ bàn tay vẫy gọi là ông đi. Ðằng nào chẳng phải đi,
huống gì từ trước tới nay bạn bè réo gọi là ông đi, không từ
chối ai bao giờ. Dẫu đi chỉ là nói một câu chuyện tầm phào lúc
nửa khuya với ấm trà thơm, ly cà phê nóng, nghe tiếng mưa rơi,
hay để thưởng thức một bài thơ hay.. .
.
Từ hun
hút của một xác thân bệnh hoạn , ông thấy mình thoát ra từ từ,
nhẹ hẫng. Mới đầu thì hai chân không còn cảm giác, sau đi lần
lên phần trên của cơ thể, và nhịp tim bỗng chậm hẳn lại, như
những tiếng trống rời rạc trong lồng ngực. Khi nó ngừng hẳn thì
óc ông cũng còn ghi nhận được vài hình ảnh xung quanh mình. Bức
tường sơn xanh với tấm tranh lập thể , bình hoa với những đóa
hồng vàng còn tươi thắm, gắn lên đó là hàng chữ nắn nót "
Get well soon " của người bạn tặng ông mới hai hôm trước. Mấy lọ
thuốc, con dao gọt trái cây, đôi giày vải dưới chân, tấm khăn
trải giường màu xanh in hoa, bây giờ có thân xác ông nằm bất
động trên đó. Lặng tắp, bình yên, đôi mắt nhắm he hé, đôi tay
còn hờ hững đặt một cách xô lệch bên trên thân xác, chứng tỏ ông
vừa với theo, chụp bắt một cái gì. . . Nhẹ , nhẹ lắm, ông chưa
bao giờ thấy mình khỏe như lúc này, cái buồn, cái đau, cái mệt
trong khoảnh khắc tiêu tan, ông có cái sung sướng của người tù
vượt thoát khỏi nhà tù là cái xác thân của
mình.
Vun vút,
vun vút. Ông không cần dùng sức mà vẫn vượt qua cánh cửa gỗ đóng
kín, bây giờ ông có thể đi lại trong nhà, nhìn ngắm những chỗ
thân quen mà bao lâu nay nằm liệt một chỗ ông không tới
được. Ông đi thẳng vào căn phòng làm việc của mình, còn ngổn
ngang sách vở và báo chí, một thứ bừa bãi rất ngăn nắp mà ông đã
từng yêu cầu vợ ông đừng mó tay vào dọn dẹp. Chiếc máy điện toán
còn nằm im ở mặt bàn gần cửa sổ, lâu nay ông không có dịp mở ra
để tìm tòi, đọc những lá thư của bạn bè bốn phương gửi tới. Ðó
là cái thú của những ngày còn bận rộn với nghiệp văn chương.
Nhìn đống thư từ và bản thảo dầy cộm trong ngăn kéo, không cần
mở ra ông cũng có thể thuộc lòng từng trang giấy, từng giòng chữ
thân yêu của bạn tâm giao, và tác phẩm của mình viết dở dang.
Những thứ này ông quý lắm, vì nó cho ông một giá trị tinh thần
mà dù có tiền cũng không mua được.
Rồi cứ
thế ông đi thơ thẩn , thong thả từ phòng này sang phòng kia.
Không đóng cửa, không mở cửa, không ồn ào, nơi phòng ăn ông nhìn
thấy vợ và hai đứa cháu đang ăn cơm, mùi gạo thơm và những thức
ăn quen thuộc. Ông đứng đó nhìn khuôn mặt mũm mĩm ngây thơ của
đứa cháu gái lên bốn tuổi, mà đã biết cãi nhau với thằng anh
trai. Vợ ông lừ mắt nhìn chúng, hai đứa bé lấm lét nhìn rồi quay
mặt đi, nhưng chân chúng nó đang đá nhau dưới gầm bàn. Thằng bé
đá mạnh khiến con bé bị đau bất ngờ óe lên khóc, bà vợ đang ăn
cơm chợt nghĩ tới ông đang ngủ trong phòng và chạy vội vào
thăm.
Như linh
cảm có điều gì bất thường trong giấc ngủ lạnh lẽo của chồng, bà
chạy vội đến để sờ vào người ông khi thấy ông nằm bất động, bà
đặt tay lên hai lỗ mũi thì không cảm thấy hơi thở, và áp tai vào
lồng ngực thì không nghe tiếng tim đập. Thế là bà kêu thất
thanh, tru lên khóc. Ông biết mà, vợ ông vốn ít khi giữ được sự
bình tĩnh cho nên vẫn hay ồn ào như vậy. Bà hiểu ông đã qua đời
trong khi bà và hai đứa cháu ăn cơm ở nhà ngoài, vì xác ông còn
hơi âm ấm.
Nghe
tiếng bà la hoảng, tru tréo thét hai đứa cháu lên lầu gọi
bố mẹ chúng . Lập tức con bé nín khóc, hốt hoảng chạy theo thằng
anh, nó suýt ngã ở bậc thang thứ hai, nhưng ông đã nhanh tay đỡ
cháu. Ðúng ra thì không ai thấy được điều này ngoài ông, nhưng
con bé chừng như chựng lại được và nhờ thế không ngã, rồi nó lốc
nhốc đi theo thằng anh lên lầu.
Tối hôm
đó, người nhà lục tục kéo đến, mấy đứa con ở riêng được gọi về,
dẫn theo một đám trẻ con, nhà ồn ào như cái chợ. Sau bao nhiêu
thủ tục rườm rà để khai tử cho một người đã lìa đời, ông được
chở đi khám nghiệm và xác định tình trạng chết vì bệnh, rồi đưa
qua nhà quàn là trạm cuối, trước khi đến nghĩa trang và vùi nó
trong lòng đất . Cuộc hành trình của một thân xác cũng khác
nhau, tùy theo giá tiền và sự giàu nghèo của gia đình. Hòm xiểng
cũng đủ giá. Hoa hoét cũng đủ loại. Ngay cả cái nắm đất nằm ở
đâu cũng đã có nhiều giá khác nhau, nhưng có một điều buồn cười
là cái xác nào cũng vậy, không thơm tho hay hấp dẫn chút nào, dù
người ta đã đắp lên nó đủ thứ hoa hoét, và đốt lên đủ loại trầm
nhang.
Ngay cả
buổi lễ an táng cũng có giá đàng hoàng, phân ra từng loại, lễ
lớn lễ nhỏ, cầu nhiều hay ít cứ thế mà người nhà chuẩn bị tiền
bạc để chi tiêu cho người chết. Ông chả bao giờ thấy điều đó là
cần thiết, vì nếu cho rằng mình hoàn toàn chịu trách nhiệm trên
hành động và tư tưởng của mình khi còn sống, thì những lời cầu
cho người chết chỉ để là cho người sống an tâm thì đúng hơn, họ
không bị ray rứt là đã không làm tròn bổn phận. Ðó là lập luận
của ông, không phải cho hết mọi người, dù chưa hiểu rõ và xác
định được những điều suy nghĩ của mình, ông cảm thấy đó là sự
suy nghĩ đúng đắn nhất.
Ông hơi
buồn buồn khi nhìn cái xác của mình nằm đó như chia tay một
người bạn thân, đã có bao nhiêu năm ròng rã vui buồn với nhau.
Nom nó thảm hại quá, xanh xao quá, và nghĩ đến chuyện trở về trú
ngụ trong nó ông sợ đến run người.
Thật ra
cần phải có một thời gian dài nằm đó, là gánh nặng cho mọi người
trong nhà ông mới nghe rõ được tiếng thở phào rất nhẹ của vợ
con. Chắc chắn họ có thương yêu ông, nhưng khi phải gánh một cái
gánh quá nặng mà chẳng biết bao giờ được trút xuống khỏi đôi
vai, thì trong nỗi đau đớn vẫn có nhẹ nhõm cho người sống, chút
mừng cho người nằm xuống . Biết được điều ấy nhưng ông vẫn không
buồn. Ðời mà, cái gì cũng chỉ nên tương đối thôi, đừng quá hy
vọng tuyệt đối một điều gì hay bất cứ ai để dễ bị
thất vọng và trở nên cố chấp. Ông thấy sự ra đi của mình
thật là đúng lúc, nhẹ cả đôi đường.
Hôm sau
là ngày phát tang, trắng xóa những giải khăn tang , áo tang may
lùng thùng và khăn tang phấp phới như một đám hội. Một số họ
hàng, bằng hữu và gia đình đã tới để dự lễ phát tang, có
thầy tụng kinh cầu siêu, có bát cơm với quả trứng luộc. Trong
quan tài, xác ông được mặc quần áo đẹp, lại thắt cà vạt cổ cồn
như khi đi ăn cưới hay dự tiệc. Người ta không quên thoa một lớp
phấn mỏng và chút phấn hồng lên mặt xác chết, tô một chút son
lên môi, ông được trang điểm như sắp lên sân khấu để ăn nói.
Điều này khiến ông buồn cười chực nhớ lại thời vàng son cuả
mình. Rồi lại còn nằm lên một thảm trà êm ngát mùi hương sen,
với những đồ đạc quen thuộc khi còn sống ông hay dùng. Ðôi
giày da, chiếc mũ dạ, chiếc khăn tay, người nhà còn cẩn thận bỏ
vào cho ông một cuốn sách và cây bút , chuẩn bị đầy đủ mọi thứ
quen thuộc để người chết ngao du trong lòng
đất.
Ông mỉm
cười chua chát. Tất cả những thứ ấy cùng với thân xác ông, sẽ
thối đi, sẽ mủn ra để trở thành tro bụi. Hồn sẽ mang đi được gì?
Tất cả trên cõi trần thuộc về vật chất, hồn chỉ mang theo những
tinh hoa của phần tinh thần, đấy mới là hành trang để định đoạt
sẽ đi về đâu ở cõi bên kia.
Những
ngày cái xác còn nằm đó là những ngày mệt mỏi cho tang quyến. Vợ
ông hốc hác và gầy rộc đi, phải nói quá nhiều những lời kể lể,
và đau buồn vì cái chết của ông, hai mắt bà sưng mọng lên và
khản cả tiếng. Nghe nhiều những lời phân ưu , buồn thật có, giả
có, bà mệt rũ người, chưa kể còn phải lo cơm cúng sáng, cúng
chiều, sắp đặt trong ngoài tiếp đón họ hàng để sau đám ma khỏi
bị "ma chê, cưới trách". Một số họ hàng từ xa đến, con cái kéo
về đủ mặt, nhưng đám trẻ con thì không giữ được vẻ buồn lâu, vì
đời còn trăm thứ bận rộn mà không thể vì một người nằm xuống,
lại có thể làm ngưng đọng. Ðứa con gái vẫn tiếp tục chuyện trò
với người yêu bằng điện thoại, chúng rúc rích nói chuyện
với nhau, và ông nghe chúng nó đang bàn tán đến
chuyến du lịch mùa Ðông sau đám ma của ông, vào những ngày lễ
nghỉ.
Ðây là
cuộc gặp gỡ đông đủ để đám con trong nhà có dịp nói với nhau về
những dự tính trong tương lai, ông thấy cũng vui vui, hơn là
phải nghe những tiếng khóc. Bây giờ thì ông đã hiểu phần nào ,
tại sao ông bà mình duy trì ngày giỗ trong gia đình. Nó chỉ là
cái cớ để xum họp, để con cháu có dịp gặp lại nhau mà nối
kết tình cảm gia đình, khi mỗi người lớn lên lại có một
gia đình riêng, ít khi có dịp gặp nhau nếu không có một lý do
chính đáng.
Trong
những người đến thăm viếng ông những ngày cuối, ông nhận thấy
nhiều khuôn mặt quen. Nói đúng ra người viếng thăm cũng phải có
chút tình nghĩa với người đã chết, nhưng cũng có người tới chỉ
để trả lễ cho phải phép. Ông len lỏi vào đám đàn ông,
người thân cùng những bạn gần bạn xa, nghe họ nói chuyện. Lúc
đầu thì họ xoay quanh cái chết của ông, về những thứ bệnh tật mà
ở tuổi ông người ta hay mắc phải. Không cao máu thì cũng tiểu
đường, không tim thì cũng gan, thôi thì có trăm thứ để kể. Nói
chán chuyện bệnh tật ốm đau, họ quay sang chuyện xã hội, cộng
đồng và chính trị. Bây giờ thì họ quên mất là ông đang nằm đó,
và người chết dẫu chỉ là cái xác vô tri nhưng linh hồn chắc cũng
đang cần sự yên tĩnh. Ðám ma của ông là dịp gặp gỡ để họ bàn bạc
sang nhiều vấn đề khác, những nhân vật khác có những âm
mưu, thủ đoạn, ghen ghét ông nghe đủ. Hình như phải đợi sau khi
chết ông mới có cơ hội để đánh giá được lòng dạ con người đối
với nhau, kinh khủng hơn là họ còn đem ông ra để mà bàn cãi
trong lúc này. Hồi ông còn sống, mỗi lần nghe báo tin một người
đã qua đời, sau khi sửng sốt trước cái tin dữ vừa nghe, thế nào
ông cũng thấy họ bàn cãi về cuộc đời của nhân vật. Tất cả những
chi tiết thầm kín cá nhân cũng được họ xì xào nhắc tới, cho nên
ông rất kinh sợ cho những tin buồn như vậy, vì ông thấy thiên hạ
vẫn không tử tế thế nào đó, nhất là cho người nằm xuống có
một dĩ vãng đau khổ.
Là một
người cầm bút, chắc hẳn tư tưởng của ông khi viết ra không thể
phù hợp cho hết thảy mọi người. Ông chấp nhận điều đó, cái gì
cũng chỉ tương đối thôi, nhưng ông có quyền hãnh diện là những
tác phẩm mình viết ra, chia xẻ những điều ông suy nghĩ, và tuyệt
đối không bao giờ chà đạp lên tư tưởng của người khác, vì ông
đâu phải cái rốn của vũ trụ.
Ðám phụ
nữ dễ thương hơn. Họ âu sầu trước cái chết của ông, có
người thút thít khóc, có người lấy khăn tay lau nước mắt, đốt
cho ông mấy nén nhang và thầm thì vài câu chia biệt. Sau những
nghi thức dành cho người chết, họ bắt đầu rù rì sang chuyện
khác. Bây giờ thì ông có quyền đứng ngay bên cạnh họ, thậm chí
có thể hôn lên má họ và đứng lắng nghe chuyện họ tâm tình với
nhau. Ðàn bà lại có chuyện của đàn bà, về ông chồng và những đứa
con trong nhà, chuyện thiên hạ với những nhân vật trong sinh
hoạt hằng ngày của họ. Nói chán chuyện chùa chiền, nhà thờ hay
hội hè, họ quay qua nhà cửa, tiệm tùng, thời trang ,
chuyện nào cũng hấp dẫn hết. Cái nhẫn hột xoàn, cái mề đay kim
cương trên khoảng ngực trắng ngần, chiếc áo mới may để chuẩn bị
cho đám cưới nhà bà X, ông Y nào đó, ôi thôi đủ thứ chuyện. Chỗ
này có tiếng sụt sịt, chỗ kia lại đang khúc khích, đời buồn vui
lẫn lộn, khiến ông là người trầm tính nhất mà cũng phải ngao
ngán cho cái vui buồn hỗn độn ấy.
Ông chán
nản quá. Thật thương hại cho cái thân xác nằm kia, sáu mươi năm
cuộc đời nghe eo sèo đủ thứ chuyện. Sáu mươi năm trôi nổi trong
cái thế giới nhân nghiã có, giả dối, bon chen, vị kỷ cũng có,
bây giờ nằm xuống là đúng quá, không nên tiếc làm gì. Suốt mấy
ngày quanh quẩn với thế giới loài người, hiểu cặn kẽ về tình
đời, giá còn sống có lẽ ông sẽ viết tiếp được một câu chuyện
hay. Ông thấy mình nên tách rời thế giới này càng nhanh càng
tốt, nhất là khi cái thân xác kia, không còn sự sống trong
đó, chỉ vài hôm thôi, nó sẽ thành một đống thịt thối không ngửi
được.
Tất cả
những kỷ vật ông để lại, ngoài sách vở và hình ảnh, vợ ông cố
chèn nhét vào cái áo quan chật hẹp làm hành trang cho ông mang
theo. Ðiều này khiến ông buồn cười và nhớ lại tính cẩn thận của
bà mỗi khi ông đi đâu xa,sắp xếp từ cái lược cho tới lọ thuốc
phải uống hằng ngày. Ðiều đó khiến ông rất cảm động và cũng vẫn
hay bực mình , vì có cảm tưởng mình là đứa trẻ con, và vợ ông là
bà mẹ luôn luôn rầy rà ông những chuyện lặt vặt. Tình nghĩa vợ
chồng là thế, tuy đối với bà, ông không có cái tình thơ mộng bao
nhiêu, nhưng ông rất trân trọng tình nghĩa vợ chồng mà hai người
đã chia xẻ với nhau. Tuy vậy, vợ ông quả thật cũng mỏi mệt khi
ông ốm lâu quá, buồn bực trong người rồi cũng đâm ra khó tính,
hay bẳn gắt. Nếu bây giờ sự ra đi của ông là giải thoát gánh
nặng cho vợ con, và họ có thể nhẹ mình nhẹ mẩy một chút, ông vẫn
không hề trách móc họ, nếu không nói là còn phải cảm ơn họ
nữa.
Vợ ông
là một người phụ nữ đơn giản thì suy nghĩ đơn giản như vậy, và
chuẩn bị ma chay cho ông như cách cuả bao người đã làm, riêng
ông, cái ông mang theo chính là tất cả tư tưởng và hành động của
mình khi còn sống, đấy mới đủ quyết định hồn ông đi về đâu. Vậy
thì ông ở lại làm gì với cái thân xác lạnh giá bệnh hoạn kia,
như một chiếc áo đầy mụn vá vì bệnh tật. Âu cũng là một cử chỉ
đẹp cuối cùng của người sống đối với người chết, thế là hết
chuyện. Ngày mai, người ta đưa ông ra đi, đến một nơi để gửi gấm
tấm thân đã giá buốt , như bầu trời Ðông đã làm rụng những chiếc
lá úa khu rừng cây bên kia đường, lòng ông bỗng cảm thấy rưng
rưng.
Ông
không định nhớ đến hình dáng mảnh mai, mềm mại rất dễ thương của
một mái tóc đen dài bên khung cửa sổ vào những ngày cuối cùng
của ông trong cuộc đời, nhưng kỳ lạ là nàng đã trở về, đúng như
những điều ông thường nghe kể về kinh nghiệm cận tử, người sắp
chết thường bỗng dưng lại thấy những bóng hình qua đi trong cuộc
đời họ. Như ảo ảnh, có đó rồi mất đó, hình như đã có lúc nó
thuộc về cõi này, rồi có lúc lại thuộc về cõi khác, nó đã đến và
đã đi, như một cái bóng của định mệnh trong dĩ vãng, rồi bỗng
lại trở về để dìu ông bước vào tương lai. Ðiều suy nghĩ này
khiến hồn ông run rẩy rồi tan đi như sương, thành những
hạt bụi ly ty của triệu triệu những phân tử ly ty trong vũ trụ.
Những phân tử ấy khi tách ra thì rất nhỏ đến nỗi không ai nhìn
thấy dù bằng kính hiển vi, nhưng cứ như một sự huyền nhiệm của
trời đất, khi kết hợp thì nó tụ lại thành một cái gì rất lơ
lửng. Hợp rồi tan, tan rồi hợp, có đấy rồi mất đấy như ảo ảnh,
để có lúc như thật mà có lúc như mộng. Nó xuyên suốt ra ngoài
cõi không, bỏ lại căn phòng đầy mùi trầm nhang và hoa
thơm.
Ðấy là
lần cuối cùng ông vĩnh biệt thế giới loài người mà lòng không
vướng bận, tiếc nuối.
Nguyên Nhung
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài khác
|
|