Sống đạo và chết vì
đạo
Theo truyện kể,
thì thánh Giuse Xuyên Giám
mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì
đạo ngày
28.10.1858, ngài đã bị xử án lăng trì,
nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị
cắt thịt ra từng mảnh.
Tương truyền
rằng khi thọ án
ngài đã có những lời ta thán
những kẻ hành hình ngài
là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà
mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn lên bậc
chân phước.
Truyền thuyết trên đây có
thể không đúng với sự thật, nhưng dù sao
nó cũng nhắc nhở chúng ta về
điều này: Người tử đạo không phải là một
anh hùng theo kiểu
các anh hùng
khác của nhân loại.
Thật vậy, các vị tử
đạo không phải là những
anh hùng ngã gục trên
chiến trường
với vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại quân thù. Các ngài
là những con người không biết thù ghét, mà cũng
không được thù ghét bất
cứ ai, trái lại luôn luôn tuân
giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là “Yêu thương
kẻ thù và cầu nguyện
cho những kẻ ngược đãi mình”. Nếu các ngài có
phải chiến đấu, thì đó là chiến
đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp
sợ của chính mình.
Vì thế, nếu có một
người nào bị giết, tuy trên danh
nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại
mình, hay kiêu hãnh tự phụ
vì tính anh
hùng của mình, thì người
đó không thể nào là
thánh được,
mà cùng lắm
chỉ có thể được coi như một
anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó
mà Giáo Hội
Công giáo không bao giờ
chấp nhận các tín hữu
của mình tự sát, ngay
cả trong trường hợp gọi là để
bảo vệ đức tin hay Giáo Hội.
Nói cách khác,
người Kitô hữu được mời gọi trước hết để sống đạo, chứ không phải chết vì đạo,
bởi vì Thiên Chúa là
Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa
của sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta sống
đạo đúng theo đòi
hỏi của Tin Mừng, nghĩa là sống trọn
tình bác ái đối với tất cả mọi người, thì cái chết chúng ta cũng
có ý nghĩa là một cái
chết vì đạo. Bởi lẽ chết
vì đạo, trước hết phải là chết
vì lòng yêu
mến.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam xứng danh là những
vị tử đạo theo cả hai nghĩa:
Các ngài đã chết để tỏ lòng trung thành
với Chúa, với Giáo Hội, nhưng các ngài cũng
chết cũng chết vì tình
yêu mến, yêu Chúa, yêu
Giáo Hội, và yêu cả
những người
bắt bớ và làm khốn
mình. Các ngài đã không
thù ghét, không nguyền rủa, mà có
khi còn tỏ
lòng biết ơn vì vô
tình họ đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để
ban phúc tử đạo cho các ngài.
Vua quan phong
kiến có thể coi các
ngài như những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả
đạo, nhưng các ngài thực
sự là những người yêu nước, yêu đồng bào, nên có
vị tuy ước ao được phúc tử vì đạo,
nhưng lại chấp nhận một cuộc sống chui nhủi, nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn tiếp tục được phục vụ anh em
tín hữu của mình. Rồi một khi bị bắt,
không một vị nào đã
tìm cách chống cự, hay tỏ vẻ thù nghịch với vua quan
lính tráng, trái lại vui vẻ chấp
nhận cái chết như một cách tỏ lòng trung
thành với Chúa và tổ
quốc.
Thật vậy, nếu không vì muốn trung
thành với tổ quốc, thì các ngài
đã có thể phản đối hay chống cự, hoặc lên án những
kẻ cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài đã
cam tâm và bình thản chấp nhận cái chết mà không hề
oán hận và hối tiếc.
Trường hợp
của thánh Phanxicô Trần văn Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người
Kitô hữu này chẳng hề muốn phản bội tổ quốc, vì ngài đã
tình nguyện xin đi đánh
giặc, nhưng vua quan từ
chối, vì ngài không chịu
bỏ đạo.
Noi gương ông cha mình, người
Việt Nam Công giáo chúng ta
hôm nay cũng phải gắn bó đời sống đức tin của mình với những đòi hỏi của đời sống con người trong xã hội,
và trong cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì mâu
thuẫn giữa đức tin và lòng yêu nước.
Nếu các vua chúa thời
trước tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử đạo thay vì phải chết
vì đạo, đã có thể
sống đạo mà phục vụ
tổ quốc và dân tộc
một cách hữu hiệu và tốt đẹp
biết bao.
|