Đền
Thờ Tâm Hồn – Enzodi
Khoảng
năm 312, hoàng đế Rôma Constantinô vừa mới
trở lại Kitô giáo, đã dâng tặng Đức giáo
hoàng Miltiade (311-314) cung điện Latêrani trên núi Coelius. Một ít thời gian sau, Đức giáo hoàng cho xây
ở đây một thánh đường, đó là
vương cung thánh đường Latêranô, là ngôi thánh
đường cổ nhất và có địa vị cao
nhất trong số các thánh đường của
phương Tây. Một truyền
thống nói rằng thánh đường này được
Đức Giáo Hoàng Sylvestre (314-335) cung hiến ngày 9 tháng 1
năm 324. Bảng chữ trên cửa lớn của
thánh đường ghi : "Mẹ và
Đầu của mọi thánh đường".
Thật vậy, vương cung thánh đường này là
nhà thờ chính của Đức giáo hoàng trên cương
vị Giám mục Rôma, nhưng vì ngài cũng là mục
tử tối cao của Hội Thánh Công Giáo, nên các nhà
thờ thuộc nghi lễ Rôma trên toàn thế giới, khi
long trọng mừng kỷ niệm thánh đường
Latêranô, thì đồng thời cũng mừng sự
hiệp nhất hoàn vũ của Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô,
và thánh đường là biểu tượng của
sự hiệp nhất đó.
Ban đầu thánh
đường được cung hiến dưới
tước hiệu Vương cung thánh đường
Chúa Cứu Thế, sau đó được dâng kính hai thánh
Gioan Tẩy Giả và Gioan Tông Đồ ;
thực vậy, thánh đường này có giếng rửa
tội cổ xưa nhất của Rôma : hàng ngàn tân tòng
đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong
đêm Phục Sinh. Vì vậy thánh
đường này đã giữ lại tước
hiệu Thánh Gioan Latêranô (Saint-Jean-de-Latran). Sau khi bị hư hại nặng vì chiến tranh,
hoả hoạn và bỏ hoang, thánh đường đã
được Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIII cho xây
dựng lại và được cung hiến lại năm
1726.
Cung điện Latêranô là một
phức hợp gồm các căn hộ, phòng họp lớn
của các công đồng, thư viện và tu viện, và
đã là toà của các vị Giáo hoàng trong hơn một ngàn
năm, cho đến khi Đức Giáo Hoàng Nicolas V
(1477-1455) rời Coelius và đến ở Vaticanô. Cung điện này cũng từng là nơi nhóm
họp của 250 công đồng, trong đó có 4 Công
Đồng Chung. Bị hỏa hoạn năm 1308 và
bị bỏ hoang trong thời các Giáo hoàng đến ở
Avignon, cung điện đã bị tàn phá và được
xây dựng lại thời Đức giáo hoàng Sixtô Quint
(1585-1590). Trong một toà nhà ngày nay
được ngăn đôi, có gian Thánh và gian Cực Thánh
(nhà thờ cũ của Giáo hoàng).
Thông điệp và tính thời
sự
a. Đoạn sách thứ nhất trong hai đoạn
được đề nghị cho bài đọc 1 trích
từ sách Êdêkien (47, 1. . .12) có đoạn này : Có
nước vọt ra từ dưới ngưỡng
cửa Đền Thờ và chảy về phía đông...
Người ấy đưa tôi ra ngoài và nói với tôi : "Nước này chảy về
miền đất phía đông, xuống vùng thung lũng
Giorđan, và đổ ra biển Chết và làm cho
nước biển hóa lành. Nước chảy đến
đâu thì mọi sinh vật sẽ được sống
và sinh sôi nảy nở. . ."
Trong đoạn sách này, ta
thấy rõ ràng biểu tượng về phép rửa, và
về Hội Thánh như là Dân Thiên Chúa và như là
Đền Thờ. Điều này cũng nhắc nhớ
chúng ta rằng lịch sử cứu độ có tính
đặc trưng bí tích và được hoàn thành nơi
Đức Kitô, Đấng thể hiện nơi bản
thân Người chân lý viên mãn của mỗi biểu
tượng, kể cả biểu tượng về
Đền Thờ, như thánh Gioan nhấn mạnh trong Tin
Mừng của thánh lễ (2, 13-22): "Nhưng Đền
Thờ mà Người (Chúa Giêsu) nói đến, đó là thân
mình Người."
Tiếp theo chủ đề bí
tích, phép rửa và Kitô học, đoạn sách thứ hai
được đề nghị cho bài đọc 1 (1 Cr 3,
9. . .17) triển khai chủ đề giáo hội học, vì
các tín hữu giống như những viên đá sống
động, những vật liệu làm thành toà nhà thiêng
liêng được đặt trên viên đá góc là
Đức Kitô: Anh em là nhà được Thiên Chúa xây lên. .
.Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài
nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.
b. Trong nhiều thế kỷ, thánh đường
Latêranô từng là nơi mà nền phụng vụ của
Giáo hoàng được triển khai những bước
đầu tiên, trước khi nó truyền lại kiểu
cách cử hành của nó cho tất cả các Giáo Hội
phương Tây. Ở đây thánh đường Latêranô
không chỉ là một "trung tâm mới của thế
giới", thay thế cho Giêrusalem, mà còn là một kiểu
mẫu cho mọi thánh đường, cũng
được gọi là mẹ, vì sinh ra những con cái
Thiên Chúa qua phép rửa, và cũng vì sinh ra những Giáo
Hội và cộng đoàn khác qua lực đẩy
truyền giáo của những thánh đường này. Do
đó, cử hành lễ kỷ niệm này cũng có nghĩa
là trở về nguồn khai sinh và phát triển của
người Kitô hữu, phần tử của một Giáo
Hội địa phương được sinh ra
bởi phép Rửa, được trở nên phong phú
bởi phép Thêm Sức và được nuôi dưỡng
bởi Thánh Thể. Tuy nhiên, mọi Giáo Hội địa
phương đều gắn kết với Giáo Hội
Mẹ, được biểu trưng bằng Giáo Hội
Rôma, với nhà thờ lớn là vương cung thánh
đường Latêranô, "Mẹ và Đầu của
mọi Giáo Hội".
c. Chúng ta thấy rõ tính thời sự của lễ này : là những phần tử sống
động của Giáo Hội địa phương,
tất cả chúng ta có trách nhiệm làm cho Giáo Hội này noi
gương Giáo Hội mẹ, sinh ra những Giáo Hội và
cộng đồng khác, đi ra khỏi những bức
tường kín hay những ranh giới địa lý
của mình, để mở ra cho toàn thế giới.
Cũng vậy, mừng lễ
cung hiến thánh đường Latêranô nhắc chúng ta
nhớ lại phép rửa tái sinh của chúng ta: "...
Trước khi chịu phép rửa, chúng ta là những
đền thờ của ma quỉ ; sau
khi chịu phép rửa, chúng ta được trở nên
những đền thờ của Thiên Chúa. . .Vì thế,
thánh Phaolô đã nói : Đền thờ của Thiên Chúa là
thánh, và đền thờ đó chính là anh em." Nhưng ân
huệ này đòi hỏi chúng ta rất nhiều
: "Anh em muốn có một thánh đường sáng
láng ư ? Đừng để tội
lỗi làm nhơ bẩn tâm hồn anh em. Nếu anh em
muốn thánh đường được chiếu sáng,
và Thiên Chúa muốn điều đó, hãy để ánh sáng
của các việc lành chiếu sáng nơi anh em. . ." (Trích một bài giảng của thánh Césaire d'Arles,
trong Giờ Kinh Sách).
|