Xin
nhớ đến tôi --- Suy niệm của
Lm. Jos Tạ
Duy Tuyền
“Tôi nhận
ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại
mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng
có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành
động như thế để phàm nhân biết kính
sợ Người”. (Gv 3, 14)
Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người
duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu
và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt
sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được
những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một
túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ
một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh
nhìn về chân trời cầu mong được cứu
thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ
anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn
trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về thì túp lều nhỏ đã
ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao.
Điều tồi tệ nhất đã
xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan
thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt
vọng: "Sao mọi việc lại thế này lại
xảy đến với tôi hở trời!".
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh
thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang
tiến đến gần đảo. Người
ta đã đến để cứu anh. "Làm sao các anh biết được tôi ở
đây?" - Anh hỏi những người cứu
mình. Họ trả lời: "Chúng tôi thấy tín hiệu
khói của anh".
Những
người đã chết cũng đang sống trong hoài
bão chờ mong. Họ chờ mong có ai
đó nhớ đến họ. Họ
chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng.
Cuộc đời của họ đã trôi
dạt vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình
cứu mình. Họ chỉ còn trông mong
nơi những người còn sống.
Người
thanh niên trên đảo đã vô tình đốt lều
tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những
mạc khải tư họ vẫn hiện về với
lửa, với nóng, với lời cầu xin “xin cứu
giúp họ”.
Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con
người hãy nhớ đến những người
đã khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do
tội mình gây nên. Họ đang phải thanh
luyện nên hoàn hảo hơn. Thế
nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác
hơn để cứu mình. Họ mong
chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima
chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đã mạc khải qua
lời chị Lucia như sau:
“Đức Mẹ đã
tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn,
dường như ở dưới lòng đất. Ma
quỉ và các linh hồn dưới hình người bị
chìm ngập trong lửa này, giống như những cục
than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng
đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một
đám cháy rực lửa, lúc thì bị tung lên không trung
bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình
họ cùng với những đám khói cả thể, lúc thì
bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp
nơi như những tia lửa của một đám cháy
khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và
rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến
chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi. Có thể nhận
ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê
tởm giống các con thú kinh khiếp chưa từng
thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát. Chúng con
làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ
đối với Người Mẹ thiên đình nhân ái
của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ
nhất đã sửa soạn trước cho chúng con
bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên
đàng. Bằng không, con nghĩ rằng chúng
con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo
hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người
thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ
có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta.
Họ cũng có thể là những
người đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ
cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không còn
cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ
đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để
được xứng đáng vào dự yến tiệc Con
Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện
ngục, Giáo hội cũng khẳng định:
"Tất cả những người chết trong ân
nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện
hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu
độ đời đời, còn phải chịu thanh
luyện sau khi chết, nhằm đạt được
sự thánh thiện cần thiết để vào
hưởng phước Thiên Đàng. Hội
Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của
những người được chọn là luyện
ngục. Điều này khác hẳn
với hình phạt đời đời" (các số
1030-1031).
Vậy chúng
ta có thể làm gì cứu giúp các linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25,
tác giả nói rằng việc nhìn nhận phần
thưởng dành cho những người an nghỉ cách
đạo đức mang ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda
đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho
những linh hồn người chết để họ
được tha thứ tội lỗi”.
Mỗi
người chúng ta đều có những người
rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong
chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta “Xin đừng quên
tôi”. Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11
như là một tháng đền ơn đáp nghĩa
những người đã yêu thương chúng ta mà nay
đã ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện
cho họ. Amen
Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
“Bố ơi, trong cuộc đời của một
cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”
“Chỉ một buồng duy
nhất.” – Bố tôi
trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên
về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh
ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối
ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.
“Khi buồng chuối chín cũng
là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây
chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy:
Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân
của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang
trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả.
Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng
chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục
hẳn xuống.
Trong quá trình
nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh
những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh
dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho
những quả chuối được chín, để dâng
cho đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi
vẫn ăn chuối và thỉnh
thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không
hề hay biết cây chuối tượng trưng cho
một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt
lại sinh trái tốt. Cây chuối
từ đời này đến đời kia cứ tiếp
tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần
sống mới phát triển. Phẩm
chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là
chất bổ dinh dưỡng mà còn là bài học quý báu
của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình.
Đó là mẫu gương của sự hy
sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là
dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh
của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta.
Họ đã đánh đổi cuộc đời cho chúng
ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an.
Họ đã một cuộc đời tận hiến thân
mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời
trái chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số
phận an bài.
Vâng, khi nói
đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh
mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã
thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát,
của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng
với những vần thơ ca tụng về tình cha tình
mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều thì
ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức
cao cả của mẹ cha:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải
biết thờ song thân".
"Biết thờ song
thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết,
thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng
đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của
mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh
công đức của mẹ hiền như non cao cũng
chưa xứng đáng:
"Ai rằng công
mẹ như non
Thực ra công mẹ
lại còn lớn hơn".
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao. Tình
thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi
mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm
tươi sáng:
"Ví dầu cầu
ván đóng đinh,
Cầu tre lắc
lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ
dắt con đi,
Con đi
trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài
cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là
tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm
để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là
danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những
tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu
của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta
khi các ngài còn sống. Niềm mơ ước đó đã
thể hiện qua những lời mẹ ru con:
"Ai về tôi
gửi buồng cau,
Buồng trước
kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.
Ai về tôi gửi
đôi giầy,
Phòng khi mưa gió
để Thầy Mẹ đi".
Trong đạo hiếu đôi khi những người
con còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc
đời riêng tư của mình, một lòng chỉ
quyết phụng dưỡng mẹ cha:
"Ơn hoài thai, to
như bể!
Công dưỡng
dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở
vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ
hết lòng làm con".
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha
mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi
xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên lòng
một cuộc đời già nua của cha mẹ:
"Chim đa đa
đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không
lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu,
mẹ già.
Bát cơm đôi
đũa, kỹ trà ai dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một
cách chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu
nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ
cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy tinh
thần thảo hiếu của người Việt vào
trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng tháng 11
như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta “ăn quả
nhớ kẻ trồng cây”. Đạo hiếu luôn nhắc
nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo với cha
mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha
mẹ. Khi còn sống biết kính trọng vâng lời. Khi
các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài
trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen
|