Nguồn
nước mắt – ĐGM. Gioan B.
Bùi Tuần
Trí nhớ
của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh
rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi
nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ
hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã
viếng nhiều nghĩa trang. Tại
Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại
Nga, tại Vaticăng.
Tôi
đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy
gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm
nghiệm. Có thứ cảm nghiệm
chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã
nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi
viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”.
Đã có
những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào
lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc
biệt là từ những dòng nước mắt ở
nghĩa trang.
Có những
nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những
nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.
Có những
nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.
Có những
nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn
màng.
Có những nước
mắt của ân tình, hiếu nghĩa.
Có những
nước mắt của niềm tin sâu sắc mong
chờ.
Khi đi sâu hơn một
chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm
nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân
lý nhân sinh.
Khám phá ra những hy
vọng ứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám
phá ra chân lý.
Những
nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn
biệt thân thiết. Tiễn biệt
người đã chết, người vĩnh viễn ra
đi. Sự chết là một sự
thật không cần bàn tới. Nhưng
đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.
Bất
cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng
đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết.
Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có
những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ
xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà
giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến
tiệc linh đình. Lại có một
người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy
mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh
thèm được những thứ trên bàn ăn
của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ
đói. Lại thêm mấy con chó cứ
đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế
rồi, người nghèo này chết, và được thiên
thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu
cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu
cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ
phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng
tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy
tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô
nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên
lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu
đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi,
hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận
phần phước của con rồi. Còn
Ladarô suốt một đời chịu toàn những
bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải
chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta
đây và con đã có một vực thẳm quá lớn,
đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không
được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng
không được” (Lc 16,19-26).
Với
dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng.
Ai cũng phải chết. Nhưng
sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết
thường vượt quá sự con người suy
nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này
được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc
phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị
rơi vào hoả ngục. Chỉ vì
sống thiếu thương cảm, thiếu liên
đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương.
Trái lại, người ăn mày kia
đã được lên thiên đàng. Vì dù
bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu
gương về đức khiêm nhường, hiền
lành và chân thật. Không được
người dư dật chia sẻ, anh phải sống
đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy
con chó đói ăn.
Nhờ
ơn Chúa, những sự thực như trên đã
được nhiều người nhận ra một cách
sâu sắc trong những dòng nước mắt tại
nghĩa trang. Những chân lý đó đã
thay đổi đời họ.
Ngoài ra,
biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc
tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy
vọng cuộc đời qua một ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không
thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến
những cuộc trở về. Họ
đã trở về từ những dòng nước mắt
của một người nào đó. Người
đó cầu nguyện cho họ. Người
đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc
bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành
chuyện đời họ. Chúa an
ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không
cần thầy thuốc. Người đau
ốm mới cần. Hãy về học biết ý
nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu
cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu
gọi người công chính, mà để kêu gọi
người tội lỗi” (Mt 9,12-13).
Những
lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất
chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra
để hy vọng tràn vào.
Họ
cảm thấy mình được xót thương,
được yêu thương. Họ
sám hối. Họ cảm thấy mình
được tha thứ. Và chính họ
cũng dễ dàng tha thứ. Một
sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ.
Họ ra đi bình an trong sự tin
tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng
thương xót. Họ khóc vì xúc động,
đây là những dòng nước mắt đầy tình
cảm tạ.
Những
người chứng kiến cũng không cầm
được nước mắt. Những
dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng
ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.
Khám
phá ra chính mình.
Tại những nghĩa
trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc,
tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha
thương con, Cha thương mọi người. Cùng
với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi,
với những vết thương, với những tang
tóc đau buồn. Khám phá ra chính mình trong
sự thực trần trụi.
Khám phá
để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo
về những công việc của mình. Nhìn
ảo về người khác. Nhìn ảo
về cuộc đời.
Để cũng nhận
ra rằng: dù với những yếu đuối, tội
lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi
với tình xót thương:
Gọi hãy
cảm thương.
Gọi hãy
chia sẻ.
Gọi hãy
trở về.
Gọi hãy
hiến dâng.
Gọi hãy
cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy
sám hối và tín thác.
Gọi hãy
vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang,
để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn
gọi đó sẽ thực hiện được,
miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong
tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi:
“Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con”
(Ga 15,4).
|