Đầy tớ
Ba người Kitô
hữu đang thảo luận với nhau về những
bản dịch Thánh Kinh mới xuất bản gần
đây. Một người nói: “Tôi thích bản dịch Phúc
âm của The New English Version. Nó dễ đọc hơn
những bản dịch cũ. “Người thứ hai thêm
ý kiến: “Tôi lại thích bản dịch của The New
Jerusalem Bible. Nó hiện đại hoá ngôn ngữ mà không
mất đi ý nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh”. Người
thứ ba trả lời: “Tôi biết một bản
dịch hay nhất. Đó là bản dịch của mẹ
tôi. Bà đã chuyển dịch Thánh Kinh vào trong đời
sống, và đó là bản dịch có sức thuyết
phục nhất mà tôi chưa bao giờ thấy. Mẹ tôi
là một con người đầy tình thương luôn
luôn để tâm tới những nhu cầu của
người khác một cách nghiêm chỉnh. Đó là
điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài sống trên trái
đất”. Với ý kiến này, tất cả ba
người đều đồng ý như vậy!
Thánh
Matthêu đã diễn tả một cách rõ ràng cuộc
đời phục vụ của Chúa Giêsu qua những công
việc đầy tình thương và quan tâm tới
những người bị xã hội bỏ rơi. Ngài
đã chạm đến những người cùi, đã ôm
và hôn những em bé, đã khoan dung với những
người tội lỗi bị khước từ
bởi những kẻ tự cho mình là đạo
đức, đã chết cho những người hèn
mọn nhất của con cái Thiên Chúa, không trừ một
ai: “Con Người đến không phải để
được người ta phục vụ, nhưng là
để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm
giá chuộc muôn người.
Tư
tưởng chính trong các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng
ta, giáo sĩ cũng như giáo dân phải trở về
với bản chất đích thực của người
môn đệ Chúa Giêsu. Đó là phải trở nên những
người đầy tớ phục vụ trong tinh
thần khiêm tốn của Thiên Chúa: “Anh em cũng
đừng để ai gọi mình là lãnh đạo, vì anh
em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô.
Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm
người phục vụ anh em”.
Bài
đọc thứ nhất, đến từ ngòi bút của
tiên tri Malachi. Ngày xưa, Malachi đã viết những
lời gay gắt về những vị lãnh đạo tinh
thần của Israel trong thời đại của ông. Những
lời tố cáo về sự cẩu thả trong phụng
vụ, ban bố những hướng dẫn sai lạc, có
những quyết định thiên vị… Dĩ nhiên, Malachi
là một người giáo dân. Ông không giữ vai trò gì trong
phẩm trật của đền thờ. Nhưng như
là một giáo dân sùng đạo, ông đã nhìn thấy
một số vấn đề về tôn giáo đáng bị
quở trách, do đó, ông không thể im lặng. Lương
tâm của ông đã bắt ép ông phải nói những lời
khó nghe với những vị lãnh đạo tinh thần
của mình: “Và giờ đây, hỡi các tư tế – linh
mục – đây là lệnh truyền dành cho các ngươi:
Nếu các người không nghe và không lưu tâm tôn vinh danh
Ta, Đức Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ khiến
các người mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành
của các ngươi thành tai hoạ”.
Nhiều
năm sau, dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, những
điều trên cũng vẫn chưa khá hơn. Lần này,
sự phê phán đến trên những người Biệt
phái và các Kinh sư “ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy…
họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà
chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại
không muốn động ngón tay vào. Họ làm mọi
việc cốt để cho thiên hạ thấy… ưa
ngồi cỗ nhất trong đám tiệc… ưa
được chào hỏi ở những nơi công
cộng và được thiên hạ gọi là rabbi”.
Tôi
rất thích nghe những bài giảng đầu tiên của
các thầy sáu. Thích không phải vì chứng kiến sự
run rẩy và lúng túng. Thích không phải vì tò mò nghe xem có cái gì
mới lạ, thầy sáu có khiếu giảng thuyết hay
không. Nhưng thích vì các thầy sợ! Sợ không phải vì
đứng trước công chúng. Sợ không phải vì không
biết nói gì – đã dọn sẵn rồi, đã qua
lớp giảng thuyết rồi! Nhưng sợ và rụt
rè vì lần đầu tiên đứng ra giảng không
biết lời mình giảng có phù hợp với việc
mình làm hay không. Lời lẽ trong bài giảng nghe có vẻ
dè dặt và nhẹ nhàng. Không dám nói mạnh! Còn ngại
miệng lắm!
Đấy
là kinh nghiệm của riêng tôi, lần đầu tiên
giảng dạy. Càng làm linh mục lâu năm, ăn nói càng
bạo dạn. Và nói nhiều điều chính mình chưa
thực hiện được. Đôi khi xem ra giữa cái
tôi mình nói và cái tôi mình sống nó không mấy ăn nhập
phù hợp với nhau. Càng không ăn nhập với nhau thì
lại càng nói hăng, có lẽ để làm cho lương
tâm bớt cắn rứt! Nói hăng và nói hay nữa.
Nhưng lại được giáo dân khen là giảng hay! Càng
hay tức là càng nói những lý tưởng cao cả mà mình
chưa thực hiện được. Thật là xấu
hổ và đáng bị Chúa mắng cho là “Họ nói mà không
làm”!
Tôi
không lấy làm lạ trước những điều Chúa
Giêsu khiển trách các Biệt phái và Kinh sư, vì đó là
mặt trái của chức vụ tư tế ở mọi
thời đại. Người thuyết giảng thích
được nổi tiếng và thường phát biểu
những lời hay ý đẹp. Chủ tế thích sự
uy nghi lộng lẫy của nghi thức bên ngoài. Lãnh
đạo tôn giáo thích được tôn vinh và kính trọng
như thần thánh. Có lẽ tự trong ý niệm của
tôn giáo đã có một cái gì đó làm cho người ta
cảm thấy rằng một số người đã
đạt tới một mức độ cao hơn
của đời sống thánh hiến, và bây giờ họ
đáng được sự kính trọng hay đối
xử đặc biệt. Sự kính trọng quá đáng
của người giáo dân Việt Nam nơi các linh mục
là một điển hình. Gặp các cha thì phải khoanh tay
cúi đầu: “Con xin phép lạy cha ạ!” Lạy mà còn
phải xin phép nữa!
Đối
với tôi, chính ở điểm này, một cách nào đó,
đã làm mờ nhạt ý nghĩa của ơn kêu gọi và
bí tích truyền chức thánh để trở thành những
người đầy tớ của Thiên Chúa như Công
đồng Vatican II đã giải thích:
“Để
bảo đảm cho dân Thiên Chúa có các vị chủ chăn
và các phương tiện tăng trưởng, Chúa Kitô
đã thiết lập trong Giáo Hội của Ngài những
thừa tác vụ khác nhau để phục vụ lợi
ích của tất cả thân thể. Đúng thế, các
thừa tác viên có quyền chức thánh sẽ phục
vụ anh chị em mình, để tất cả những ai
thuộc về Dân Thiên Chúa có thể đạt tới
ơn cứu độ”.
|