NGHE VÀ LÀM – DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON
(Mátthêu
21,28-32 – CN XXVI TN - A)
1.- Ngữ
cảnh
Nhìn
vào dàn bài tổng quát của phân đoạn gồm các chương 21 và 22, ta nhận ra đặc
tính bút chiến của ba dụ ngôn Đức Giêsu kể ra nhằm biện minh cho kế hoạch của
Thiên Chúa:
1)
Dụ ngôn Hai người con (21,28-32) xác định trong Israel có
những người tội lỗi thực sự vì bất phục tùng.
2)
Dụ ngôn Những tá điền sát nhân (21,33-43) vạch trần kế hoạch
sát nhân của người Do Thái và loan báo chương trình của Thiên Chúa là sắp
chuyển sứ mạng của người Do Thái cho Dân ngoại (c. 45 cho thấy rằng các thượng
tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ, và như thế là gián tiếp nhìn
nhận dự tính sát nhân của họ).
3)
Dụ ngôn Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) gom lại các dữ kiện của
hai dụ ngôn trước (từ khước vì bất phục tùng, sát hại người con trai, hủy diệt
những kẻ sát nhân, kêu gọi những người khác).
Ba
bài dụ ngôn này cũng được trình bày tiệm tiến (làm việc, cung cấp hoa trái,
đến dự tiệc).
Dụ
ngôn Những người thợ làm vườn nho (20,1-16) đã nêu bật rằng
Thiên Chúa không hề bị lệ thuộc hành vi con người; Ngài hoàn toàn tự do và tốt
lành. Trong dụ ngôn Hai người con, Đức Giêsu cho thấy lần nữa rằng
thi hành ý muốn của Thiên Chúa là một bổn phận không thể tránh
né.
2.- Bố
cục
Bản
văn có thể chia làm ba phần:
1) Dụ
ngôn Hai người con (21,28-30);
2)
Câu hỏi đặt ra cho thính giả (21,31);
3)
Bài học kết thúc (21,32).
3.- Vài
điểm chú giải
- Các
ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai (28): Đức
Giêsu hỏi ý kiến của các thính giả và cả các đối thủ của Người. “Người kia”
tượng trưng Thiên Chúa; còn “hai người con” tượng trưng cho hai thành phần làm
nên Dân Thiên Chúa vào thời Đức Giêsu: những người “tội lỗi”, không tuân giữ
Lề Luật và các quy định của kinh sư, và những người “công chính” trung thành
với tôn giáo chính thức, ở đây là các thủ lãnh của Dân. Cả hai bên đều được
gọi là “con” của Thiên Chúa.
- nó hối
hận (30): Tác
giả Mt không dùng động từ “hoán cải” (metanoeô) mà là
động từ metamelomai, chỉ có ở đây và ở Mt 27,3,
nhưng được dùng nhiều trong Bản LXX theo nghĩa là “quay trở về với Thiên Chúa”
(Ed 14,22; Tv 105,45; Xh 13,17…). Metamelomai có
thể có nghĩa đơn giản là “thay đổi tâm trí, nghĩ lại”, nhưng ở đây, cũng như ở
c. 32 và 27,3, rất có thể cũng có nghĩa là “hối hận”. Động từ này không có
trọng lượng thần học của động từ metanoeô.
- vào
Nước Thiên Chúa trước các ông (31): Động
từ proagô thường có nghĩa là “đi trước”, nhưng ở đây có nghĩa
là “chiếm chỗ”. Đây là một kiểu nói A-ram.
- Nước
Thiên Chúa (31): Cụm
từ basileia tou theou (Nước Thiên Chúa) không thông dụng
trong Mt, nó đến từ truyền thống có trước, nhưng cũng có ý nghĩa
như basileia tôn ouranôn (Nước Trời)
4.- Ý
nghĩa của bản văn
Bản
văn này được đặt trong khung cảnh một cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các
thượng tế và kỳ mục trong dân (x. 21,23). Sau khi Người đã khéo léo từ chối
trả lời họ về nguồn gốc của “quyền” của Người, Đức Giêsu kể dụ
ngôn Hai người con. Dụ ngôn này mở đầu và kết thúc bằng một câu
hỏi mà họ phải trả lời.
* Dụ
ngôn Hai người con (28-30)
Cả
hai người con đều được cha đề nghị với giọng thân tình là đi làm vườn nho cho
ông. Phản ứng của họ hoàn toàn khác nhau. Người thứ nhất trả lời bằng một câu
“Con không muốn” khô khan và bất lịch sự, không đưa ra một lý do nào. Nhưng
rồi anh nghĩ lại, “hối hận” (metamelêtheis), và đi làm việc trong vườn
nho. Người thứ hai đáp lại bằng một câu “Con đây, thưa ngài! (egô
kyrie)” lịch thiệp và khả ái: một kiểu xưng hô hợp với một nô lệ hơn là
với một người con; anh hứa vâng phục. Tuy nhiên, anh lại không đi đến vườn
nho.
* Câu
hỏi đặt ra cho thính giả (31)
Câu
hỏi của Đức Giêsu (“Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý
muốn của người cha?”, c. 31a) quá rõ là chỉ có thể có một câu trả lời mà thôi.
Người đã thi hành ý muốn của cha chỉ có thể là người con đã đi làm việc trong
vườn nho mà thôi. Do đó, câu trả lời của họ là: “Người thứ nhất”. Nhưng vì đây
là một dụ ngôn nhắm đưa tới một quyết định mang tính pháp lý làm mẫu, khi trả
lời, họ đã tuyên bố án xử trên chính họ.
Với
một câu có từ amen long trọng mở đầu, Đức Giêsu lại quay về
trực tiếp với các đối thủ và áp dụng dụ ngôn vào họ. Những người thu thuế và
những cô gái điếm là hai nhóm người ở bậc thấp nhất trong hệ thông tôn giáo
đương thời và về giá trị luân lý. Họ là những con người bị coi là không có
phẩm cách cả về tôn giáo lẫn luân lý, nhưng lại được Đức Giêsu đặc biệt chiếu
cố đến (x. Mc 2,13-17; Lc 18,9-14;
7,36-50; Ga 7,53–8,11). Họ sẽ được vào Nước Thiên Chúa trước
các nhà lãnh đạo Israel.
Như
thế, khi trả lời Đức Giêsu, các nhà lãnh đạo Do Thái đã phải tuyên bố chính
bản án về mình. Tuy nhiên, không dễ mà áp dụng dụ ngôn vào họ, vì các khác
biệt quá lớn. Đâu là sự đối lập giữa nói và làm mà bài dụ ngôn nêu bật? Có bao
giờ họ đã thưa vâng với lời Gioan và Đức Giêsu công bố về Nước Thiên Chúa, mà
rồi không chịu áp dụng giáo huấn của các ngài? Phải chăng những người thu thuế
và các cô gái điếm đã vâng theo, rồi nay loại bỏ? Lại càng khó áp dụng
câu amen (c. 31c) vào cuộc tranh luận cụ thể về quyền bính
của Đức Giêsu và về phép rửa của Gioan ở cc. 23-27. Dường như cả dụ ngôn lẫn
áp dụng ở c. 31c đều không liên hệ gì đến Gioan Tẩy Giả cả. Do đó, trong c.
32, tác giả Mt tìm cách làm sáng tỏ cách áp dụng và xây dựng
mối liên kết với cc. 23-27.
* Bài
học kết thúc (32)
Câu
kết thúc liên kết dụ ngôn và cách áp dụng vào cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu
với các thượng tế và các kỳ mục ở cc. 23-27. Đức Giêsu thấy xuyên
qua những chuyện họ thì thầm với nhau (c. 25). Bây giờ Người mới trả lời cho
câu hỏi chính Người đặt ra về Gioan Tẩy Giả, và Người nói thẳng vào mặt các
đối thủ: Gioan “đã đến với các ông trong đường công chính”, nhưng các ông đã
không tin ông ấy. Có nghĩa là các ông đã không vâng lời ông ấy và nhìn nhận
quyền bính thần linh của ông ấy. Do đó, các ông đã không hối hận (oude
metemelêthête), và lại còn tệ hơn cả hai người con trong bài dụ ngôn. Cụm
từ “trong đường công chính” (en [h]odô dikaiosynês) không phải là một
công thức Kinh Thánh theo mặt chữ, nhưng ngôn ngữ Kinh Thánh vẫn nhắc nhớ rằng
phải sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Đây là hướng phải theo để hiểu
bản văn của chúng ta. Công thức này một đàng nhắc độc giả nhớ đến 3,15, là câu
nói về sự công chính mà Gioan thực hiện khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, đàng
khác, nhớ đến 11,18, là câu nói đến Gioan “nhà khổ hạnh” (“không ăn không
uống”) “đến”. Câu 31c hàm ý là “những người thu thuế và các cô gái điếm”,
không giống các nhà lãnh đạo Do Thái, “đã tin” Gioan. Câu này sai niên biểu
(anachronism), bởi vì chúng ta chỉ nghe nói đến Đức Giêsu, chứ chưa bao giờ
nghe nói đến Gioan như là người có quan tâm đặc biệt đến các người
thu thuế và các cô gái điếm. Tuy nhiên, ý tưởng rút ra từ c. 31c là quan
trọng: vị trí trước nhan Thiên Chúa của các thượng tế và kỳ mục một bên và các
người thu thuế và gái điếm bên kia đã bị đảo ngược. Điểm khác biệt là ngữ cảnh
đã làm cho từ “(đi) trước” tương đối của c. 31c trở thành một phân biệt tuyệt
đối. Họ tin – nghĩa là vâng phục – trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái thì
không. Trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái đã thấy những người bị khinh dể đến
với đức tin, kinh nghiệm vẫn không làm cho họ phải ghen tức
(x. Rm 11,14), nên họ không giống người con thứ nhất, “sau đó
(hysteron), đã hối hận”. Đối với tác giả Mt, “sau đó” đã đi
đến hiện tại của ngài. Chính ngài và Hội Thánh ngài biết rằng “sự hối hận” này
vẫn chưa xảy ra ngay ngày hôm nay.
+ Kết
luận
Qua
bài dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy chúng ta đừng phê phán về giá trị tôn giáo của
người ta dựa theo một bảng phân loại các hạng người hoặc thể theo
những cam kết về lý thuyết hay nguyên tắc. Nói cho cùng, chính cách xử sự cho
thấy đáy lòng.
Khi
so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn Người con hoang đàng, ta có thể thấy được là
các quan hệ giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Israel xấu đi rõ ràng. Người con
nói không, rồi hối hận, có lẽ ít đáng bị trách hơn đứa con hoang đàng, nhưng
người con nói vâng mà không làm gì cả thì bị phê phán nghiêm khắc hơn người
anh cả ghen tị. Trong bài dụ ngôn Luca (ch. 15), thính giả có
ấn tượng là người cha gia đình còn hy vọng bao trùm sự ghen tương tồi tệ của
đứa con cả bằng tình thương của ông. Nhưng khi nghe dụ ngôn Hai người con, ta
đoán ra rằng Đức Giêsu không còn hy vọng hoán cải người Pharisêu được nữa. Họ
đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy Giả, họ đã thấy những người thu
thuế và các phụ nữ tội lỗi hoán cải, thế mà họ không hề băn khoăn nghĩ ngợi!
Sự chai đá của họ thật vô phương cứu chữa!
5.- Gợi
ý suy niệm
1. Chúng
ta học nơi Đức Giêsu bài học là không có nhận định kiểu thành kiến về giá trị
tôn giáo của người ta dựa theo cách phân loại các hạng người tùy các dấn thân
theo nguyên tắc hay các lý thuyết của họ. Chỉ lối sống thực tế mới cho thấy
lòng dạ con người.
2. Dù đã
nói “không”, hoặc đã sống xấu xa, chẳng một ai lại phải tuyệt
vọng. Câu trả lời đầu tiên không phải là lời quyết định, nếu ta không ở lại
trong lời ấy, nếu ta biết điều chỉnh nó và vượt thắng nó bằng lối cư xử đúng
đắn tiếp sau. Và lối xử sự đúng đắn của những người trước đấy đã sống sai lạc
hẳn là phải thúc đẩy những người vẫn tự nhận là tốt lành đi đến hoán cải,
nhưng không khiến họ bắt chước hành động trước đây của
mình.
3. Cần
phải đi tìm biết ý Thiên Chúa và mau mắn đón nhận. Cần phải nhận biết các sứ
giả Thiên Chúa gửi đến nhằm thông tri cho ta biết ý muốn của Ngài. Từ khước
lấy lập trường là một cách lấy lập trường chống lại ý muốn của
Thiên Chúa. Lời nói không thể thay thế hành động hữu hiệu. Đã nói là vâng theo
ý Thiên Chúa thì phải nghiêm túc thực hiện thánh ý Ngài trong đời sống
mình.
4. Dù
chúng ta hay người anh em có thế nào, tất cả đều là con của cùng một Cha, được
Ngài thương trọn vẹn, tín nhiệm trọn vẹn, và giao công việc đồng đều: chăm sóc
chính vườn nho của Ngài. Chúng ta có biết nhận ra vinh dự đó mà sống cho
nghiêm túc đời sống và sứ mạng của mình, đồng thời giúp anh chị em cũng sống
được như thế chăng?
Lm FX Vũ Phan
Long, ofm
|