Stroke tiếng Việt gọi là Ðột Quỵ hoặc Tai
Biến Mạch Máu Não, còn Heart Attack là Cơn Ðau
Tim. Hai bệnh có một số điểm giống và khác nhau
đôi khi cũng khó mà phân
biệt.
- Cả
hai đều gây ra do sự gián đoạn cung cấp máu cho mỗi bộ phận là não
và tim.
- Cả hai đều cần được cấp cứu tức
thì vì hậu quả của bệnh tùy thuộc vào điều trị sớm hay muộn.
- Triệu
chứng của hai bệnh đều khác nhau.
Nhận diện và nhớ được sự khác biệt
về dấu hiệu báo động sự xuất hiện giữa hai bệnh đôi khi cũng gây bối
rối cho nhiều người. Xin cùng tìm hiểu về hai bệnh này.
Trước hết, xin nhấn mạnh là các tế
bào trong cơ thể hoạt động được đều nhờ chất dinh dưỡng và dưỡng khí
do dòng máu cung cấp. Gián đoạn sự cung cấp này sẽ đưa tới rối loạn
chức năng cho bộ phận đó rồi cho toàn cơ thể.
Não bộ và tim là hai bộ phận chủ
chốt của cơ thể và rất nhạy cảm với sự thiếu cung cấp nguồn nhiên
liệu để hoạt động, dù sự gián đoạn chỉ trong vài phút đồng
hồ.
STROKE LÀ GÌ
?
Stroke
là một cơn yếu ớt bất chợt ở một phía của cơ thể gây ra do sự gián
đoạn lưu hành máu tới một phần nào đó của
não.
Ngưng
cung cấp máu có thể là do ở trên não có một cục máu làm tắc nghẽn
(85%) hoặc do một mạch máu bị đứt rách.
Không có máu, tế bào não chết liền nếu
không được cấp cứu.
Mỗi
phút không điều trị đưa tới hủy hoại cho 1.9 triệu tế bào não, 7.5
miles sợi thần kinh và 14 tỷ điểm giao liên kết hợp thần
kinh.
Báo
cáo y học của American Heart diễn tả sự tổn thương tế bào não khi
không được điều trị với sự hóa già của cơ quan này như
sau:
Cứ
một giây không điều trị não già đi gần 8 giờ, mỗi phút không điều
trị, não già gần 3 tuần lễ, chậm điều trị 1 giờ, não già đi 3.6 năm
và nếu không chữa, não già đi 36 năm. Mà não đã hóa già hết hoạt
động thì hậu quả tai hại sẽ vô lường, vĩnh viễn.
Coi
vậy thì cấp cứu điều trị Stroke quan hệ như thế nào.
Cho
tới nay, đột quỵ được coi là đệ tam sát thủ đối với con người, sau
bệnh tim và ung thư và là đệ nhất nguyên nhân gây ra tàn phế cơ thể,
đệ nhị hung thủ gây tàn phế thần kinh, sau bệnh
Alzheimer.
Bên
Hoa Kỳ, hàng năm có tới trên dưới 700,000 người bị stroke với gần
200,000 tử vong.
Sống
sót thì cứ một trong sáu người cần chăm sóc tại các cơ sở lâu dài;
ba trong bốn người giảm khả năng làm việc.
Kinh
hoàng như vậy mà dường như nhiều người vẫn chưa biết rõ về bệnh cũng
như chưa chịu áp dụng các phương thức phòng ngừa để bệnh không đến
với mình.
Những
dấu hiệu báo trước
Dấu
hiệu tùy thuộc nguyên nhân gây tai biến, vùng não và số lượng tế bào
bị tổn thương. Ðiểm đặc biệt của dấu hiệu báo động là một số
những “Ðột Nhiên”
- Ðột
nhiên thấy yếu một bên cơ thể như mặt, tay hoặc chân là dấu hiệu sớm
nhất và thông thường nhất; rồi:
-
Ðột nhiên thấy tê dại trên mặt, cánh tay hoặc chân ở một nửa thân
người.
-
Ðột nhiên thấy bối rối, nói lơ lớ khó khăn hoặc không hiểu người
khác nói gì.
- Ðột
nhiên có khó khăn nhìn bằng một hoặc cả hai con
mắt.
- Ðột
nhiên chóng mặt, đi đứng không vững, mất thăng
bằng.
- Ðột
nhiên thấy nhức đầu như búa bổ mà không rõ nguyên
nhân.
Không phải tất cả các dấu hiệu này
đều xảy ra trong mỗi tai biến. Nhưng nếu thấy một vài trong những
dấu hiệu đó là phải kêu cấp cứu, tới nhà thương ngay. Ðây là trường
hợp khẩn cấp, trễ phút nào nguy hiểm gia tăng với phút đó.
Y giới đưa
ra trắc nghiệm gọi tắt là FAST để sớm phát hiện
stroke:
F = Face: yêu cầu họ cười, coi
xem một bên mặt có méo, môi xệ.
A = Arm: yêu cầu giơ 2 tay lên
cao, coi xem một tay có yếu xụi thõng xuống.
S = Speech: yêu cầu nhắc lại
một câu nói, coi xem giọng nói có ngọng lớ, nhắc lại có đúng
T = Time có nghĩa thời gian
điều trị là quan trọng, cần hành động kêu 911 cấp cứu ngay.
Nếu áp dụng trắc nghiệm này thì đôi
khi người thường cũng dễ dàng thấy stroke đang xuất hiện.
Ngoài ra, tùy theo não trái hoặc
phải bị tổn thương mà triệu chứng khác nhau đôi chút.
a) Ðột quỵ ở não trái hay phải đều
đưa tới suy yếu hoặc tê liệt của phần cơ thể phía đối diện cộng thêm
mắt mở rộng hoặc môi xệ xuống.
b) Ðột quỵ não trái gây ra rối loạn
về ngôn ngữ ảnh hưởng tới việc phát ra và hiểu lời nói kể cả đọc và
viết. Lý do là trung tâm kiểm soát ngôn ngữ thường nằm bên não trái.
Nạn nhân cũng có rối loạn về trí nhớ, một chút rối loạn hành vi,
chậm chạp và dè dặt hơn.
c) Tổn thương não phải: Ngoài tê
liệt nửa thân phía trái, bệnh nhân còn bị mất trí nhớ, hành vi hấp
tấp, không suy nghĩ, kém nhận xét về không gian, hay bị xúc động,
buồn rầu và chỉ để ý tới sự việc xảy ra mé phải cơ thể. Chẳng hạn
bệnh nhân không thấy có người tới ở phía trái hoặc bỏ quên thực phẩm
trên phần đĩa bên trái.
Ðiều
trị
Ðiều
trị stroke tùy theo bị máu cục hoặc đứt động
mạch.
Máu
cục thì thuốc loãng máu như aspirin là ưu tiên rồi tới heparin...
Aspirin cần được dùng trong vòng 3 giờ sau tai
biến.
Còn
stroke do đứt mạch máu thì cần giải phẫu để sửa chỗ đứt và giảm áp
lực của máu tràn đè lên tế bào não. Aspirin không được dùng vì sẽ
làm máu loãng, chảy nhiều hơn
Sau
giai đoạn cấp cứu, bệnh nhân được tiếp tục điều trị tại trung tâm
phục hồi chức năng, để lấy lại các chức năng đã mất hoặc suy yếu gây
ra do sự thiếu nuôi dưỡng tế bào não.
Tóm
lại, tai biến động mạch não là một tai nạn trầm trọng, cần được cấp
cứu tức thì để cứu vãn sự sinh tồn của tế bào thần kinh. Nhiều nhà
chuyên môn coi tai biến này nguy hiểm như Cơn Suy Tim heart attack,
và gọi là Brain Attack.
Tai
biến có thể viếng thăm bất cứ ai, không kể tuổi tác, nam nữ, giầu
nghèo.
HEART ATTACK LÀ GÌ
?
Tim
là bộ phận thiết yếu trong việc nuôi dưỡng toàn bộ tế bào trong cơ
thể. Hằng ngày, tim liên tục làm việc suốt 24 giờ để bơm một khối
lượng hơn 7,000 lít máu. Ðể hoàn thành công việc này, tim cần oxy và
chất dinh dưỡng do động mạch vành (Coronary
Artery) cung cấp.
Vì
nhiều lý do khác nhau, mặt trong của động mạch vành bị các mảng chất
béo bám vào, làm cho động mạch trở nên cứng và hẹp, máu lưu thông
giảm đi. Một máu cục có thể thành hình và gây tắc nghẽn hoàn toàn sự
lưu hành của máu. Tế bào tim không nhận được chất dinh dưỡng và oxy,
sẽ bị hủy hoại, đó là sự nhồi máu cơ tim (myocardial infarction).
Thời gian thiếu máu càng lâu thì sự hủy hoại của tế bào tim càng lan
rộng và cơn đau tim càng trầm trọng hơn.
Ðôi
khi, cơn đau tim cũng xảy ra khi động mạch vành co thắt tạm thời làm
cho lưu lượng máu tới tim giảm đi. Các cơn co thắt tạm thời này có
thể gây ra do căng thẳng tâm thần, tiếp xúc với thời tiết lạnh, khói
thuốc lá hoặc khi sử dụng vài loại thuốc như bạch
phiến...
Tại
Hoa Kỳ, mỗi năm có khoảng 1.5 triệu người bị Cơn Ðau Tim với hậu quả
là gần 500,000 trường hợp tử vong. Hơn một nửa số tử vong này xảy ra
1 giờ sau cơn đau và trước khi bệnh nhân tới bệnh viện. Ngoài ra đã
bị Heart Attack cũng thường đưa tới Stroke.
Cơn đau tim là một trường hợp khẩn
cấp, cần được điều trị tức thì. Mỗi giây phút trì hoãn là giây phút
dẫn tới “thập tử nhất sinh” cho người bệnh.
May
mắn là cơn đau tim có thể điều trị được và các nguy cơ gây ra cơn
đau tim có thể đối phó, thay đổi để phòng ngừa căn bệnh hiểm nghèo
này.
Những
dấu hiệu báo trước cơn đau tim
Có một số dấu hiệu báo
trước sự xuất hiện của cơn đau tim:
a) Cảm giác khó chịu,
đau đè như có vật nặng ép trên ngực, kéo dài tới mấy phút rồi mất
đi, nhưng có thể tái xuất hiện. Cơn đau có thể nhè nhẹ vừa phải tới
đau không chịu được.
b) Cảm
giác đau từ ngực chạy lên vai, cổ hoặc lan ra cánh tay; đầu ngón tay
cảm thấy tê tê..
c)
Choáng váng, muốn xỉu, đổ mồ hôi, buồn nôn, khó
thở.
d) Lo sợ, nóng nẩy, bồn
chồn.
đ) Da
xanh nhợt.
e)
Nhịp tim nhanh, không đều.
Nếu cảm thấy một trong những dấu
hiệu này thì phải kêu cấp cứu ngay.
Nên lưu ý là phụ nữ có thể có các
dấu hiệu khác hoặc không rõ ràng như nam giới. Họ có thể cảm thấy
đau ở bụng, cho là bị ợ chua với da ẩm ướt hoặc mệt mỏi bất thường.
Mà không ngờ là có thể đang bị heart attack.
Ðiều
trị
Ngay khi cảm thấy có dấu hiệu bị cơn
đau tim, bệnh nhân cần phải kêu số điện thoại cấp cứu để được đưa đi
khám bệnh và điều trị càng sớm càng tốt. Ðiều trị sớm có thề ngăn
ngừa hoặc giới hạn sự hư hao của tế bào tim và giảm được tử vong cho
người bệnh.
Trên
đường chuyên trở bệnh nhân tới bệnh viện, nhân viên cấp cứu đã có
thể bắt đầu sự chữa trị với phương tiện sẵn có trong xe cấp cứu. Họ
thường xuyên liên lạc trực tiếp với bác sĩ tại bệnh viện để thông
báo tình trạng người bệnh và tham khảo ý kiến về cách thức đối phó
với cơn đau tim. Họ có thể cho bệnh nhân thở oxy, dùng thuốc giảm
đau tim nitroglycerin, morphine. Họ cũng sử dụng máy cấp cứu tim khi
nhịp tim rối loạn, tạm ngưng...
Tới
nhà thương, bệnh nhân được đưa vào phòng cấp cứu tim trang bị đầy đủ
dụng cụ, và dược phẩm. Các bác sĩ sẽ hành động ngay để phục hồi sự
lưu hành máu tới tim, giảm thiểu tổn thương cho các tế bào và liên
tục theo dõi tình trạng bệnh.
Thuốc gây tan cục huyết được dùng trong
vòng 1 giờ kể từ khi bắt đầu có dấu hiệu của cơn đau
tim.
Thuốc loại nitrate để giúp động mạch bớt co
thắt và giảm cơn đau trước ngực.
Thuốc chống đông máu đề làm máu loãng,
tránh đóng cục trong lòng động mạch.
Thuốc viên aspirin để ngăn ngừa tiều cầu
kết tụ với nhau.
Ngoài ra còn các dược phẩm giúp hạ huyết
áp, giảm sức căng của động mạch, nhờ đó tim làm việc nhẹ nhàng hơn;
thuốc điều hòa nhịp tim; thuốc an thần giảm đau. Bệnh nhân liên tục
được hít thở oxy.
Thời
gian điều trị tại bệnh việc tùy thuộc tình trạng nặng hay nhẹ của
bệnh, sự đáp ứng với các phương thức chữa trị, thường thường là năm,
sáu ngày nếu không có biến chứng.
Trước khi xuất viện, bệnh nhân được hướng
dẫn về cách thức chăm sóc và dùng thuốc, về chế độ dinh dưỡng, về
nếp sống, về sự vận động cơ thể với chương trình vật lý trị liệu,
phục hồi chức năng của tim. Bệnh nhân sẽ hiểu rõ nên vận động như
thế nào để tăng cường sức mạnh của cơ thể mà không gây ra rủi ro cho
trái tim, hiểu rõ về bệnh tim của mình và biết cách đối phó với các
khó khăn trong đời sống hằng ngày để tránh cơn đau tim tái
phát.
KẾT
LUẬN