LỊCH SỬ, Ý
NGHĨA VÀ LÒNG TÔN KÍNH ĐỨC MẸ
TRONG
THÁNG NĂM
Có lẽ, không một ai
trên Đất Việt là người Công Giáo mà lại không
biết đến tháng Năm là Tháng Hoa dâng kính Mẹ.
Thật vậy, sinh hoạt tôn giáo tại các Giáo Xứ từ
Bắc –Trung – Nam, cứ
mỗi dịp tháng Năm về, ấy là lúc muôn con tim
dạo rực hướng về Mẹ Maria như một
ngọn hải đăng để tỏ lòng tôn kính,
mến yêu.
Trong số vô vàn cách tỏ bày lòng tôn kính
đối với Đức Mẹ nơi con dân
Nước Việt, thì lòng đạo đức bình dân
như: dâng hoa kính mẹ; rước kiệu Mẹ;
lần chuỗi Mai Khôi; rồi những bài Thánh Ca
hết sức dễ thương được cất
lên để tôn vinh Mẹ là Nữ Hoàng Thiên Quốc.
Cùng với toàn thể Giáo
Hội, chúng ta bước vào tháng Hoa. Tháng Hoa
đối với Giáo Hội Công Giáo mang một ý nghĩa
đặc biệt vì nó được dành riêng để
tôn vinh Mẹ Chúa Trời.
Trước tiên, xin được
khởi đi từ lịch sử của tháng Hoa,
để thấy được diễn tiến của
Giáo Hội trong việc sùng kính này.
1.
Gốc
tích Tháng Hoa
Mới đây, dịp phong Thánh cho hai
vị Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 vừa
qua tại Rôma, qua màn hình trực tiếp, chúng ta đều
thấy thời tiết không còn lạnh lắm qua cách
ăn mặc của người dân khắp nơi
đổ về. Thời tiết lúc này bên Rôma cũng
giống như khí tiết của Việt Nam tại các vùng Bắc
Bộ. Khí hậu lúc này không còn rét đậm rét hại, cái
rét mà nhiều người diễn tả: “rét cắt da cắt thịt”. Vì
thế, cây cối trơ trụi và không phát triển là bao.
Từ những nét
đặc trưng của khí hậu như thế, nên ngay
từ những thế kỷ đầu, tại Rôma,
thời điểm này, người ta tôn kính sự thức
giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên, bằng những
cuộc rước linh đình để tôn kính Hoa là
nữ thần của mùa Xuân.
Người Công Giáo thời điểm
đó đã tôn giáo hóa ý nghĩa này và thánh hóa tập tục
đó bằng cách rước kiệu hoa và cầu
nguyện cho mùa màng tốt tươi...
Ở nhiều nơi,
người ta rước những cành lá có nụ, có hoa
ở đầu cành, gọi là “Rước
xanh”. Những cành hoa, lá, được đưa
về Nhà Thờ trang trí và nhất là nơi ngai tòa Mẹ
Maria.
Đối với các nghệ nhân, thì
họ đua nhau điêu khắc hay vẽ những bông hoa
thật đẹp để tôn lên vẻ đẹp
kiều mỹ của Mẹ trên các bức tranh hay trên vách
tường...
Còn các nghệ sĩ thì sáng tác những
bài hát mang đượm lòng tôn kính. Các bài
giảng về Mẹ cũng được soạn ra
để cùng nhau sử dụng hầu bày tỏ lòng tôn
kính.
Đến thế kỷ 14, Linh Mục Henri Suzo Dòng Đaminh, vào ngày đầu
tháng 5, đã khởi xướng việc trang hoàng hoa muôn
sắc chung quanh tượng Mẹ.
Còn Thánh Philiphê Nêri, vào ngày 1 tháng 5, đã quy tụ các trẻ em lại quanh bàn
thờ Mẹ, và hướng dẫn các em dâng lên Mẹ
những bông hoa tươi sắc. Ngài cũng dâng lên Mẹ
những đóa hoa lòng còn trong trắng đơn sơ để Mẹ dìu dắt các em.
Sang thế kỷ thứ 17, việc dâng
hoa kính Mẹ được cử hành trong toàn dòng các
nữ tu kín Clara. Mỗi chiều đều vang lên
những bài hát kính Đức Mẹ. Từ đó, dần
dần được lan rộng ra bên
ngoài nơi các xứ đạo lân cận.
Đầu thế
kỷ 19, việc tôn kính Mẹ được lan rộng nhiều nơi. Các
nhà giảng thuyết đã có những bài giảng suất
sắc về Mẹ. Linh Mục Chardon
là người có công nhiều nhất trong việc phổ
biến lòng đạo đức này. Thời
điểm trên, lòng tôn kính Mẹ được cử hành
rầm rộ nhất là tại nước Pháp và một
số nước lân cận.
Các Đức Thánh Cha được coi
là gắn bó đặc biệt với Đức Mẹ,
đó là: Đức Thánh Cha Piô VII, đã cổ võ việc
sùng kính Mẹ vào tháng Năm. Đức Piô IX đã ban
ơn toàn xá cho những ai tham dự việc đạo
đức này. Và, đến thời Đức Piô XII, trong
Thông điệp “Đấng
Trung gian Thiên Chúa”, đã thêm vào và có tính khuyến khích cao: “Việc tôn kính Đức
Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức
được thêm vào nghi thức Phụng Vụ, được Giáo Hội công nhận và cổ võ”.
Đầu thế kỷ 20, Tông Huấn về việc tôn kính Đức Mẹ
được Đức Phaolô VI ban hành, trong đó có
đoạn viết: “Tháng
Năm là tháng mà lòng đạo đức của giáo dân
đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp
để bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà
người Công Giáo khắp nơi trên thế giới có
đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên
Đàng. Trong tháng này, các kitô hữu, cả ở trong thánh
đường cũng như nơi tư gia, dâng lên
Mẹ từ những tấm lòng của họ những
lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến
yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc
của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta
từ ngai toà rất dồi dào của Đức Mẹ” ( Tông huấn về việc tôn
kính Đức Mẹ, số 1
).
Tháng 10 năm 2002, chuẩn bị
mừng 25 năm Giáo Hoàng của đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II, ngài gửi đến mọi thành phần dân Chúa
bức Tông Thư “Kinh Rất Thánh Mai Khôi” về Kinh Mai Khôi, lặp lại xác tín và lòng yêu mến
Đức Mẹ. Và dịp Khánh Nhật Truyền Giáo
năm 2003, ngài chỉ muốn nhắc lại xác tín này là “Hãy cùng với Đức Maria mà
chiêm ngắm, bước theo và sinh Chúa Giêsu cho những
người đồng thời với mình”.
Ngài cũng đã viết hai văn kiện lớn
về Đức Mẹ:
- Thông điệp “Mẹ
Đấng Cứu Độ”, công bố ngày 25.3.1987,
để chuẩn bị Năm thánh Mẫu, bắt
đầu từ lễ Hiện Xuống năm 1987 và
bế mạc ngày lễ Mông Triệu năm 1988.
- Tông thư “Kinh Rất Thánh Mai Khôi”, công bố ngày 16.3.2002.
Chính ngài đã thêm vào Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng
và công bố Năm Mai Khôi ( từ tháng
10.2002 đến tháng 10.2003 ).
Như thế, việc tôn
sùng Đức Mẹ không tách rời mầu nhiệm
cứu độ của Thiên Chúa, mà Mẹ được
ví như máng chuyển ơn của Người xuống
cho nhân loại.
Lược qua một chút về
lịch sử tháng Hoa, cũng như những hướng
dẫn về lòng tôn sùng Đức Mẹ, chúng ta cùng
tiếp tục tìm hiểu thêm về ý nghĩa của tháng
này.
2.
Ý nghĩa
của tháng Hoa
Mẹ Maria cũng
được ví như Người Nữ tuyệt
vời, đẹp nhất trong muôn ngàn phụ nữ,
Mẹ đẹp tâm hồn, Mẹ đẹp thân xác. Vì thế, nơi hoa
tỏa ra mùi thơm ngào ngạt,
tượng trung cho các nhân đức nơi Mẹ.
Đồng thời, những sắc màu của hoa
tượng trưng cho Mẹ là Mẹ muôn loài khi đón
nhận vai trò làm Mẹ Thiên Chúa.
Đức Mẹ còn được ví
như Hòm Bia của Thiên Chúa, mà hoa lại là vật
được dùng để trang trí cho Hòm Bia Giao
Ước thời Cựu Ước. Như thế,
Đức Mẹ luôn ở bên Thiên Chúa. Và hoa lại ở
bên Mẹ...!
Hẳn chúng ta còn
nhớ, trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã
truyền lệnh cho Môsê làm những nụ và cánh hoa
để trang trí nơi cây đèn 7 ngọn đặt
trước Hòm Bia Giao Ước. Hay như Salomon, ông đã
ra lệnh cho nghệ nhân điêu khắc những cánh hoa bên
trong và bên ngoài để trang trí nơi Cực Thánh trong
đền thờ.
Bắt nguồn từ
đó, hoa trong phụng vụ hay truyền thống của
người Công Giáo luôn được coi trọng. Nó
được dùng để trang hoàng cung thánh, bàn thờ
hay để tỏ lòng tôn kính với các vị thánh,
đặc biệt là Đức Mẹ. Tức là hoa
được dùng vào vị trí trang trọng trong
đời sống phụng vụ của Giáo Hội.
Mẹ Maria được ví như
bông hoa thơm ngát trước tòa Chúa,
nhưng trước đó Mẹ cũng là những con
người rất đỗi bình thường như bao
người phụ nữ khác. Tuy nhiên,
được Thiên Chúa tuyển chọn, và qua tiếng “Xin Vâng” nên Mẹ đã
trở nên tuyệt mỹ hơn muôn ngàn phụ nữ.
Mẹ đã trở nên đóa hoa thơm
ngát trước Ngai Thiên Chúa. Mẹ đã
trở nên đóa hoa độc nhất vô nhị của
thế giới loài người. Tại
sao lại như thế, thưa chỉ vì Mẹ là Mẹ
Thiên Chúa và như một sự tất yếu, Mẹ là
Mẹ loài người.
Nhờ ơn Chúa, Mẹ đã trở
nên đóa hoa kiệt tác như: ơn vô nhiễm nguyên
tội, ơn đồng trinh trọn đời, Mẹ
Thiên Chúa, Hồn xác lên trời và Mẹ như “hoa hường mầu nhiệm
vậy”.
3.
Ý nghĩa
của việc dâng Hoa kính Mẹ
Tại sao lại dâng hoa mà không dâng
những thứ khác ?
Thưa, rất đơn giản,
vì hoa là thứ đẹp nhất trong mọi loài Chúa dựng
nên, chẳng thế mà Đức Giêsu đã ví sự
lộng lẫy, tươi đẹp của hoa còn hơn
cả vua Salomon: “Chúng con hãy xem
hoa huệ ngoài đồng. Chúng không canh cửa, không xe
dệt, thế mà Thầy bảo cho chúng con biết, ngay
cả Vua Salômôn dù vinh hoa tột bậc, cũng không thể
mặc đẹp bằng một bông hoa ấy”.
Các Nhà Thờ thường hay tổ
chức dâng hoa kính Mẹ, lúc này, mỗi màu hoa lại
tượng trung cho một nỗi lòng của con cái
muốn dâng lên Mẹ, hay ca ngợi một nhân đức
nào đó của Mẹ. Như vậy, Hoa biểu trưng
cho lòng Mẹ và cũng là biểu trưng của lòng con
người:
Hoa huệ
trắng biểu trưng sự trong sạch khiết trinh
nơi Mẹ;
Hoa hồng
diễn tả lòng mến nồng nàn mà Mẹ dành cho Chúa;
Hoa lan
toát lên sự trung thành, mạnh mẽ và can đảm
nơi Mẹ;
Hoa sen
tượng trưng phó thác, đại lượng và cung
kính nơi Mẹ;
Hoa có màu tím
tượng trung cho sự khiêm tốn ...
Người Việt Nam chúng ta khi biết ơn ai,
hoặc kính trọng ai, thường hay biểu cảm qua
bó hoa hay bông hoa. Cũng vậy khi đón
nhận được ơn lành từ Trên ban,
người ta cũng dâng tạ bằng những bông hoa.
Với người Công Giáo, những biến cố quan
trọng trong đời sống Đức Tin như: khi
Rửa tôi; Thêm Sức; lãnh nhận Hôn Phối; hay Truyền
Chức Thánh, người ta cũng
tặng hoa cho những người được
mừng, và ngay cả khi chết, người ta cũng
biểu đạt bằng hoa trên quan tài, bên di ảnh hay nơi
mộ phần. Hay khi gặp rủi ro, tai
nạn, bệnh tật, khi hết bệnh, người ta
cũng dâng hoa để tỏ làng biết ơn với
Thiên Chúa, Đức Mẹ và các thánh...
Riêng với Đức
Mẹ, người dân Việt Nam có lòng sùng kính
đặc biệt. Từ khắp nơi, mọi
thành phần, lứa tuổi, đều hân hoan, nô nức
dâng kính Mẹ những đóa hoa tươi thắm mối
dịp tháng Năm về.
Tuy nhiên, hoa
được dùng để qua đó, diễn tả hoa
thiêng cõi lòng của con người. Hoa sẽ tàn phai, héo úa,
lòng người cũng sẽ tàn phai và ủ rũ
nếu không đón nhận được sứ
điệp từ những việc đạo đức
này. Vì thế, điều quan trọng chính là tấm lòng
chân thành, đơn sơ, yêu mến, phó thác, cậy trông
của mỗi chúng ta dành nơi Mẹ. Như thế,
nhờ những cách hoa lòng, chúng ta sẽ được
nâng tâm hồn lên với Mẹ để Mẹ đón
nhận và bầu chữa cho chúng ta. Thật
vậy, không một ai có lòng tôn kính Mẹ mà mất ơn
cứu rỗi bao giờ.
4.
Lòng sùng
kính Đức Mẹ đem lại hy vọng
được Sự Sống đời đời
Công Đồng Vatican II đã khẳng định: "Trong nhiệm cục ân
sủng, kể từ khi Mẹ tin tưởng ưng
thuận trong ngày truyền tin, sự ưng thuận mà
Mẹ đã kiên quyết giữ trọn cho đến bên
Thập Giá. Đức Maria tiếp tục
thiên chức làm Mẹ cho tới lúc vĩnh viễn hoàn
tất việc cứu độ mọi người
được tuyển chọn. Thực vậy, sau
khi về trời, vai trò của ngài trong việc cứu
độ không chấm dứt, nhưng ngài vẫn tiếp
tục liên lỉ chuyển cầu để đem lại
cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta
được cứu độ đời đời...
Vì thế, trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ
được kêu cầu qua các tước hiệu:
Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ
và Đấng Trung Gian" ( LG 62 ).
Vì Mẹ là Mẹ
của Đầu thân thể mầu nhiệm Hội Thánh
là chính Đức Giêsu và là “mẹ
của nhân loại” ( x. LG 54 ), và, Đấng Cứu
Thế đã mang lấy đau khổ của mọi
người thì Mẹ Maria, Đấng đồng công
cứu chuộc, đã chia sẻ hơn ai hết các hậu
quả tai ác của tội lỗi nhân loại khi
đảm nhận sứ mệnh làm Mẹ Đấng
Cứu Thế: “Còn chính bà, thì
một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn
bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều
người phải lộ ra” ( Lc 2, 35 ).
Tuy nhiên, vai trò Trạng Sư, vị
Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ và Đấng Trung Gian
của Đức Mẹ phải gắn liền với
Đức Giêsu Đấng là khơi nguyên và cùng đích
của mọi điều thiện hảo.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cung minh
định: “Trinh nữ Maria
được công nhận và tôn kính là Mẹ đích
thực của Thiên Chúa và của Đấng Cứu
chuộc... Mẹ cũng thật sự là
‘Mẹ các chi thể Chúa Kitô’... vì Mẹ đã cộng tác
bằng đức ái của mình vào việc sinh ra các tín
hữu trong Hội Thánh, là những chi thể của
Đức Kitô là Đầu. Đức Maria là Mẹ
Chúa Kitô, là Mẹ của Hội Thánh” (x. Sách Giáo Lý
Hội Thánh Công Giáo, số 963 ).
Việc sùng kính Đức Maria còn
bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi vì: nhờ Người,
với Người và trong Người, mọi vinh quang,
danh dự đều quy về Cha trong sự hiệp
nhất của Chúa Thánh Thần. Vì vậy, những
biểu hiện tỏ lòng tôn kính Mẹ Maria cần
phải dẫn đến việc tôn thờ Thiên Chúa Ba
Ngôi, phải nhằm vào sự kết hợp trực
tiếp với Đức Giêsu, thiếu yếu tố này,
mọi việc kể như vô hiệu.
Qua những gì đã chia sẻ ở trên
dựa trên Giáo Huấn của Giáo Hội, chúng ta
có quyền tin tưởng sẽ được cứu
độ khi tôn sùng Đức Mẹ cách chính đáng và
hợp với ý định và trong chương trình của
Thiên Chúa.
Về điểm này, Thánh An Phong, DCCT, quả
quyết: "Hết mọi
ơn thánh ở trong Chúa Giêsu như nguồn mạch:
nhưng do ý định mầu nhiệm và thương xót
của Chúa, không một ơn nào ban xuống cho loài người
mà không có Mẹ cầu xin cho. Hơn nữa, Mẹ Maria là
Mẹ đầy tình thương, Mẹ chỉ có một
sứ mạng, một chức vụ là thương xót:
đến nỗi những tội nhân khốn nạn
nhất, tuyệt vọng nhất là những người
đầu tiên được Mẹ cứu, Mẹ dấu
yêu, miễn là họ đừng bỏ mất thiện chí
cải tạo mà tin tưởng chạy đến với
Mẹ". Ngài còn kêu gọi tội nhân bằng lời
tha thiết này: "Bạn hãy
yêu mến Mẹ Maria! Hãy cầu xin Mẹ, thì bạn
sẽ được cứu rỗi"; "Chúng ta
được rỗi là do Mẹ cầu bầu”; "Tôi
tớ Mẹ không ai có thể hư mất đời
đời”.
5.
Những
việc làm cụ thể tỏ lòng tôn sùng Đức
Mẹ theo truyền thống Việt Nam
Bắt nguồn từ
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Người
dân Việt Nam ngay từ
lâu, đã có hình ảnh tốt đối với
Đức Mẹ qua hình ảnh người mẹ trong
đời thường. Chắc chắn đã có lần anh chị em
nghe lời giới thiệu ngọt ngào, truyền cảm,
đầy xúc động của ca sĩ Thanh Lan trong
băng nhạc chủ đề Quê Hương và
Lòng Mẹ như sau: "Mẹ
là dòng suối ngọt ngào", "Mẹ là bóng mát dịu
dàng", "Mẹ là nguồn thương yêu bất
tận", "May mắn thay là những người còn
mẹ", "Mất mát thay là những người
thiếu Mẹ", "Mỗi người chúng ta hãy dành
một Bông Hồng cài áo Mẹ"… "Tất
cả chúng ta đều trở nên bé nhỏ dưới ánh
mắt, trong vòng tay và trong tình thương yêu bao la như
biển cả của Mẹ"… "Mẹ đã che
chở cho chúng ta trong những vinh nhục của cuộc
sống, qua những sóng gió của cuộc đời".
Như vậy, lòng sùng
kính Đức Mẹ của chúng ta mang đậm nét kính
trọng và mến yêu vì mang nặng tình mẫu tử. Qua hình ảnh người mẹ trần gian, thôi
thúc chúng ta hướng về Mẹ trên Trời. Thật vậy, trong cuộc
sống, những lúc gặp khó khăn hay hoạn nạn,
nhiều người đã thuộc nằm lòng những ca
vãn ngợi khen, và cầu xin tha thiết như: “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi
lối cho con lúc vượt biển…"; “Mẹ
ơi, đoái thương xem nước Việt Nam…”;
“Lạy Mẹ, xin yên ủi chúng con luôn luôn…”, v.v… rồi
những kinh Kính Mừng, tràng chuỗi Mai Khôi
được đọc lên râm ran trong các thánh
đường, nơi các gia đình, và trong mọi
biến cố vui buồn, thành công hay thất bại... Các
cuộc rước linh đình, nhiều đền đài
được mọc lên, nhiều Nhà Thờ
được mang tước hiệu của Mẹ.
Những thói quen đó đã đem lại cho Giáo Hội
Việt Nam một tinh thần sốt sắng, giàu Đức
Tin, lòng mến và trung kiên giữ đạo dù trải qua
trăm nghìn thử thách gian truân.
Tuy nhiên, việc sùng kính đó nhiều
lúc đã làm cho không ít người xa lạ với Đức
Tin, tức là họ đã nhìn nhận Đức Mẹ
như là Đấng Trung Gian tuyệt đối, mà quên
mất rằng: “Mọi
ảnh hưởng có sức cứu độ của
Đức Trinh Nữ trên nhân loại, đều bắt
nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô" ( x. LG 60 ). "Thực
vậy, không bao giờ có thể đặt một thụ
tạo nào ngang hàng với Ngôi Lời Nhập Thể và
Cứu Chuộc” ( Sách
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 970 ).
Thiết nghĩ, nhân dịp này, mỗi
chúng ta hãy nhìn lại việc sùng kính của mình dành cho
Đức Mẹ, và nếu đang đi quá xa về cách
thức biểu lộ niềm tin và cách tôn sùng Mẹ không
đúng với Giáo Huấn của Giáo Hội, thì hãy
chỉnh lại sao cho phù hợp, để lòng tôn sùng
Đức Mẹ không mất đi hay xa lạ với Đức
Tin Công Giáo mà lại làm cho Đức Tin được thêm
khởi sắc và đúng như ý Chúa, ý Mẹ và Giáo
Huấn của Giáo Hội mong muốn.
Vì thế, Công Đồng đã nhắc
nhở: “Lòng tôn sùng chân chính
không hệ tại ở những tình cảm chóng qua và vô
bổ, cũng không hệ tại ở sự dễ tin phù
phiếm, nhưng phát sinh từ một Đức Tin chân
thật. Đức Tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn
nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa,
và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và
noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” ( LG 67 ).
Mong sao, những việc tôn sùng
Đức Mẹ của chúng ta sẽ dẫn đến
việc noi gương Mẹ để sống cho
đẹp lòng Thiên Chúa như Mẹ đã sống,
để sau cuộc đời này, chúng ta được
cùng Mẹ ca ngợi Thiên Chúa không ngừng trên Thiên Quốc.
Lạy Thiên Chúa là Cha
toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con
người Mẹ tuyệt với là Đức Maria. Xin
cho mỗi chúng con biết yêu mến Chúa như Mẹ,
biết noi gương các nhân đức của Mẹ,
để sau cuộc đời nay, chúng con cũng
được vào Thiên Quốc dự tiệc vui bên Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, xin đón nhận
muôn vàn ý nguyện của chúng con dâng lên Mẹ qua những
đóa hoa muôn sắc màu, ước gì chúng con
được đón nhận những ơn lành của
Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ. Amen.
Tu Sĩ Jos. Vinc
NGỌC BIỂN
|