Trong bài trước, “Ông phải
đặt tên…”, về chương I của sách Tin
Mừng Matthêu, tôi chưa nói đến những khuôn mặt phụ nữ trong gia
phả của Đức Giêsu Kitô. Trong bản văn,
mỗi khuôn mặt phụ nữ đều xuất
hiện với một “dấu láy” trong giọng văn
(dịch sát):
3. Giuđa sinh Pe-ret và De-rac do bà Ta-ma
5.
San-môn sinh Bô-át do bà Ra-kháp
5. Bô-át
sinh Ô-vết do bà Rút
6. Vua
Đa-vit sinh Sa-lô-môn do vợ của U-ri-gia
16.
Gia-cop sinh Giu-se chồng của bà Maria, do bà này mà
Đức Giêsu được sinh ra, Đấng
được gọi là Kitô.
I. Những
người phụ nữ này là ai?
1/ Ta-ma: Người
phụ nữ thứ nhất là Ta-ma, người phụ
nữ công chính. Sách Sáng Thế kể về Bà
trong chương 38, như một khoảng nghỉ khi
đang kể chuyện dài về ông Giuse. Câu chuyện
của bà này thật éo le. Ông Giu-đa lấy vợ
người Ca-na-an, sinh được ba đứa con
trai. Ông cưới cho con trai đầu lòng một
nguời vợ tên là Ta-ma (dĩ nhiên cũng là người
Ca-na-an như vợ ông). Con cả chết mà không có con, theo
luật thừa kế, người con trai thứ hai
phải “chu toàn nhiệm vụ của một
người em chồng và làm cho anh có người nối
dõi”. Cậu này nhận nhiệm vụ một nửa
thôi, ăn ở với chị dâu nhưng cố tình không
cho chị cơ may sinh con. Cậu bị Chúa phạt
chết. Ông Giu-đa bảo con dâu tạm về nhà cha
mẹ, đợi thằng em út lớn lên sẽ tính
tiếp. Đến lượt ông Giu-đa tìm cách “đánh
bài lờ”, vì thấy Ta-ma có “số sát chồng”, ông sợ
cho tính mạng con trai
út.
Nhưng Ta-ma không phải là người
phụ nữ chịu để người ta cho “ăn
thịt lừa”. Bà quyết dành kỳ được
quyền lợi cho chồng: có con nối dõi từ dòng
giống nhà chồng. Thừa lúc ông Giu-đa mới mãn tang
vợ (mẹ chồng của bà), bà đón đường
và che mặt giả làm gái điềm. Bà dụ dược
ông Giu-đa. Ông mặc cả, nàng chịu cho “trả
tiền sau” bằng “một con dê con”. Ta-ma đòi “có chút gì
giữ làm tin”. Giu-đa chịu đưa “chiếc
ấn, sợi dây đeo ấn và cây gậy ông cầm
ở tay”. Nên nhớ chiếc ấn liên quan tới
quyền thừa kế, [người cha cho lại
đứa con hoang đàng chiếc nhẫn, tức là cho
lại quyền thừa kế (x. Lc 15,22)]. Khi Giu-đa cho
người dẫn con dê con tới chuộc tín vật thì
người đẹp đã biến mất cùng với tín
vật. Ông Giu-đa tự trấn an: “Miễn sao
đừng bị chê cười vì không giữ lời
hứa…”
Nhưng ba tháng sau, người ta báo tin cho
ông : “Ta-ma, con dâu ông đã đi làm điếm, nó còn mang
bầu vì đi làm điếm nữa”. Ông Giu-đa phán
quyết ngay: “Lôi nó ra mà thiêu sống!”
Người ta làm thiệt! nhưng khi
bị lôi ra thì bà ôm theo các tín vật và yêu cầu bố
chồng nhận lại. Bà tự lột khăn che mặt
và phơi mặt luôn ông bố chồng. Ông đành phải
thú nhận: “Nó công chính hơn tôi; quả thật tôi
đã không cho nó làm vợ Sê-la con trai tôi”. Bà đã thành
công trong việc bảo vệ quyền lợi cho chồng,
Bà đã bảo đảm được cho chồng có con
nối dòng chính hiệu, lại còn sinh đôi
nữa!
Câu chuyện quả là éo le đối
với người đọc hôm nay. Nhưng Sách Thánh
kết thúc với phán quyết của ông Giu-đa: “nó
công chính hơn tôi”. Ông sòng phẳng với cô gái
điếm để khỏi bị chê cười,
nhưng lại không giữ lời hứa với con dâu và
con trai mình. Cô là người công chính và làm cho ông bố
chồng trở thành công chính.
2/ Người phụ nữ
thứ hai: Ra-kháp (Gs 2; 6,22-23).
Nếu Ta-ma giả làm gái điếm, thì
Ra-kháp là gái điếm thứ thiệt, “quốc tế”
như trong những phim gián điệp hiện đại!
Bà đã đón hai “điệp viên” do ông Gio-su-ê phái “đi
xem vùng đất và thành Giê-ri-khô”. Nhờ mưu trí, bà đã
cứu mạng và giúp cho hai gián điệp này thoát đi. Bà
nhận được lời hứa “đền ơn
cứu mạng” và một tín hiệu để bảo
đảm cho bà và mọi người trong gia đình
được an toàn khi Giêri-khô thất thủ. Ra-kháp
cứu mạng hai gián điệp của Giosuê, nhờ
đó bà cứu mạng cả gia đình dòng họ nhà bà:
hai gián điệp được sai vào “đem cô ra
khỏi đó cùng với cha mẹ, anh em cô và mọi người
thân thuộc của cô: họ đem tất cả thị
tộc của cô ra khòỉ đó, và cho họ ở bên ngoài
trại It-ra-en”.
3/ Người phụ nữ
thứ ba: Rút (sách Rút).
Rút là một khuôn mặt khác hẳn:
người con dâu trẻ gốc Mô-áp, đơn sơ
chất phác. Góa chồng sớm, nhưng quyết theo mẹ
chồng, cũng là góa phụ, về quê chồng, dù không còn
hy vọng có con nối dõi cho chồng: “Mẹ đi
đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở
đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của
mẹ là Thiên Chúa của con. Mẹ chết ở đâu con
chết ở đó, và nơi đó con sẽ
được chôn cất” (Rút 1,16).
Với lòng hiếu thảo đó nàng đã
đi mót lúa để nuôi mẹ chồng. Lòng hiếu
thảo và sự cần cù của nàng đã làm rung
động tâm hồn môt người họ hàng bên
chồng là ông Bô-át. Ông đã đứng ra thi hành bổn
phận môt người trong họ hàng, chuộc gia
sản và gầy dựng người nối dõi cho
người trong dòng họ. Ông đã chuộc lại
ruộng đất của chồng con bà Nô-ê-mi và
cưới Rút làm vợ. Rút sinh con trai. Mọi người
chúc mừng bà Nô-ê-mi và hết lời ca tụng nàng dâu: “Nó
[đứa trẻ] sẽ giúp bà lấy lại
sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà
trong tuổi già, vì người con dâu yêu quý bà đã sinh ra
nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai”. Con dâu
hiếu thảo như thế quả là hiếm có!
4/ Người phụ nữ
thứ tư: Bát Sê-va, vợ ông U-ri-gia người Khết
(2
Sm 11-12; 1 Vua 1)
Nếu ba người phụ nữ
trước làm cho dòng sông được chảy tiếp
mỗi khi bế tắc, thì bà Bat Sê-va là người khai
sông: Đa-vit có gần chục bà vợ, hàng tá con trai, ví
như nước nguồn chảy vào biển hồ Galilê,
nước có nguy cơ ngừng chảy và thành nước
ao tù. Từ bồn tắm trên sân thượng nhà bà, bà
nhảy vô biển hồ của vua Đa-vit và làm sạp
lở một mảng bờ hồ, thành cửa cho
nước biển hồ lại chảy thành sông. Bản
văn láy vô chỗ “vợ U-ri-gia người Khết”
(không phải người It-ra-en!).
Đọc sách 2 Sa-mu-en chương 11-12 chúng
ta có cảm tưởng như tất cả tội
lỗi đổ lên đầu vua Đavit, bà chỉ là
nạn nhân. Nhưng đọc kỹ một chút thì sẽ
thấy “coi vậy mà không phải vậy”. Trước hết
không nên tách câu chuyện này ra khỏi toàn bộ chuyện “nhà
Đavit” với những mưu mô chốn cung đình, cá
tính của cha con nhà Đavit, nhất là Đavit và
người kế vị. Cả một bộ “chuyện
dài nhiều tập” liên quan tới việc kế vị
Đavit.
Trước hết cần nhìn “toàn
cảnh” cá tính tài tử đa tình, anh hùng đẹp trai mà
Sách Thánh mô tả Đavit từ khi xuất hiện lần
đầu trên “sân khấu”:
đẹp trai : “cậu có mái tóc
hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn” (1
Sm 16,12);
một nghệ sĩ với tiếng
đàn có sức như liều thuốc an thần cho vua
Sa-un (1Sm 16,14-23);
một cậu bé anh hùng, tuổi
trẻ tài cao, hạ được tên khổng lồ
Goliat để cất nỗi nhục cho It-ra-en (1 Sm 17),
khiến vua Sa-un phải ghen tị,
và sớm trở thành một danh
tướng (1 Sm 18, 6-16);
sẵn sàng liều mạng vì người
đẹp Mi-khan công chúa, lấy mạng hai trăm
người đàn ông Phi-li-tinh để làm đồ thách
cưới theo yêu cầu của nhà vua (1 Sm 18,17-27).
Đavit đa tình đa cảm, đa thê,
đa tử: thời gian lưu lạc như một tên thảo
khấu trong hoang địa, cảm kích vì
sự đảm đang của bà góa A-vi-ga-gin, ông đã
cưới bà làm vợ, rồi lại cưới thêm bà
A-khi-nô-am. Bản tổng kết thứ nhất về gia
đình vua Đavit khi ở Khép-rôn đã cho tên sáu
người con trai do sáu bà vợ, không kể công chúa Mi-khan
vô sinh (2 Sm 3,2-5). Bản tổng kết thứ hai
tại Giêrusalem cho tên mười một người con
trai nữa (2 Sm 5,13-14).
Đến khi Ap-sa-lon làm phản, chúng ta
lại thấy nói đến mười tỳ thiếp mà
khi Đavit chạy trốn đã để lại giữ
nhà, bị Ap-sa-lon bắt tất cả làm vợ của
mình để chứng tỏ mình đã làm vua (x. 2 Sm
16,20-22 và 20,3), đúng như lời ngôn sứ Na-than (2
Sm 12,11-12). Có vẻ như đó là phong tục, vì lời
ngôn sứ Na-than cho thấy Đavit cũng đã làm như
thế với những người vợ của Sa-un khi
chiếm được ngôi vua (2 Sm 12,8).
Trở lại chuyện “mùa xuân” trong
hai chương 11-12. Nghệ thuật kể chuyện
tuyệt vời, ngọt xớt đến nỗi
người nghe bị cuốn theo mà không ngờ là
người kể đã khéo dùng ngón tay ảo thuật che
đi một góc bức tranh. Chúng ta chỉ đọc ra
hết khi đọc cho hết câu chuyện Bat Sê-va.
Câu chuyện được lồng trong hai chuyện
khác: cuộc chiến ở ngoài biên giới và cuộc
chiến trong cung điện nhà vua về việc kế
vị Đavit. Câu chuyện kế vị chỉ kết
thúc với việc bà Bat Sê-va dành được ngai vua cho
con là Sa-lô-môn, qua đó định hướng cho dòng
chảy của dòng dõi Đavit. Cuộc chiến ngoài biên
thùy là bối cảnh và cơ hội cho việc Bat Sê-va
thành vợ của Đavit và sinh ra người thừa
kế, với cái chết của chồng bà là tướng
U-ri-gia, dưới chân thành Rabba.
Ba câu chuyện thật lồng vào nhau,
lại còn một dụ ngôn ở giữa để
giải nghĩa. Dụ ngôn của Na-than để mở
mắt cho Đa-vit nhận ra tội giết người
cướp vợ, mang ý nghĩa sâu và dài hơn ta
tưởng lúc đầu. Khi theo dõi số phận“con chiên
cái” Bat Sê-va cho tới lần xuất hiện cuối
cùng để đưa Sa-lô-môn lên ngai của Đavit (1
Vua 1), ta thấy nạn nhân đích thật là U-ri-gia
bị mất mạng, Đavit thế chỗ của
U-ri-gia, “con chiên cái” từ nay thành “duy nhất” trong lòng
Đavit. Kể từ lúc này các bà vợ khác của Đavit
không còn được nhắc đến nữa. Nàng
A-vi-sac sẽ hầu hạ Đavit khi những cái mền
len không còn đủ sức giữ ấm cho Đavit,
nhưng không phải là vợ của Đavit. Bat Sê-va là
người vợ cuối cùng trong cuộc đời
đa tình đa thê của Đavit. Các đứa con khác
của Đavit giết lẫn nhau và đe dọa cả
tính mạng của Đavit. Sau khi hoàng tử A-đô-ni-gia
đã tự lên ngôi, Na-than bảo bà Bat Sê-va: “Tôi xin góp ý
với bà để bà tự cứu lấy mạng mình và
mạng Sa-lô-môn…” Bà vào nhắc vua Đavit nhớ lại
lời hứa cho Sa-lô-môn kế vị (1 Vua 1,17-21),
rồi Na-than vào bồi thêm. Kết quả Đavit ra
lệnh cấp tốc đặt Sa-lô-môn lên ngai, cũng
như ngày trước vua đã cấp tốc cho đi
mời bà vào cung, rồi cấp tốc cưới bà làm
vợ.
Câu chuyện mở đầu thế này: “Lúc
xuân về, thời mà các vua ra quân, vua Đavit sai ông Gio-áp
đi… giết hại con cái Am-môn và vây hãm Rap-ba… Còn vua
Đa-vit thì ở lại Giêrusalem.” Nghe cứ như là
mùa săn bắn vậy! Trong khi cuộc chiến do
tướng Giô-áp chỉ huy ở bên kia sông Gio-đan
được tóm trong hai chữ “giết hại” và “vây hãm”,
thì chuyện xảy ra với vua Đavit ở nhà cũng
sẽ được ngôn sứ Na-than ví như một
cuộc cướp bóc và giết hại. Hai cuộc săn
bắn mùa xuân! Cuộc săn bắn trực tiếp
của Đavit diễn ra giữa hai sân thượng,
cuộc săn bắn do Giô-ap chỉ huy diễn ra ở
thành Rabba (Am-man ngày nay), nhưng kẻ bị giết
hại chung cho cả hai cuộc săn bắn là U-ri-gia,
chồng của Bat Sê-va: Giô-ap sẽ mời Đavit kéo quân
còn ở nhà qua mà kết thúc con mồi Rabba, sau khi cuộc
săn bắn trên sân thượng đã kết thúc với
việc Đavit “đưa nàng về dinh” và nàng cho ông có
đứa con nối ngôi.
Ôi mùa xuân của Đavit tuyệt vời:
một lần ra quân mà bắt được “vợ
của U-ri-gia” và bắt được cả thành Rabba
nữa.
Khi nhận báo cáo quân sự thứ nhất
của tướng Giô-áp về tổn thất nhân
mạng, Đavit giả bộ coi cái chết của U-ri-gia,
chồng bà Bát Sê-va như một hậu quả may rủi
đương nhiên phải xảy ra: “việc binh
đao là thế, khi thì người này khi thì người
kia”, nhưng sự thật là chính vua đã trao cái thư
phong tặng “anh dũng bội tinh và bảo quốc huân
chương” cho ông U-ri-gia cầm theo mà lãnh từ tay
tướng Giô-áp, sau khi ông không chịu làm theo ý Đavit là
về nhà “đánh véc-ni” giùm cho tác phẩm mùa xuân của
Đavit. “Rượu mời không uống thì uống rượu
phạt”!
Đavit nóng lòng chờ bản báo cáo này
để “đưa nàng về dinh”.
Báo cáo quân sự thứ hai của Giô-áp
để xin Đavit dẫn quân tới kết thúc cuộc
săn bắn ở ngoại biên nói: “Tôi đã tấn công
Rabba, tôi còn hạ được cả thành dưới,
chỗ có nhiều nước”.
Nếu vẽ thành hai bức tranh: “cuộc
vây hãm thành Rabba” và “bồn tắm mùa xuân” của Bat
Sê-va, đặt song song với nhau như nghệ thuật
kể chuyện của tác giả gợi ý, rồi nhìn
cả hai củng một lúc, ta sẽ thấy “bồn
tắm của Bat Sê-va” ở cái sân thượng (dĩ
nhiên) thấp hơn, có vẻ là nơi nàng thành nạn nhân
của Đavit, nhưng thực ra đó là lúc nàng “hạ”
thành của Đavit, sau khi đã vây hãm bằng những màn
tấn công khác từ sân thượng nhà nàng, vốn
chẳng xa dinh của Đavit, và cũng đã chiếm
được ưu thế đến nổi dám
đặt bồn tắm trên sân thượng mà tắm
trước mặt Đavit đang ở sân thượng
cao hơn. Ông không cần ống nhòm mà ngắm nhìn
được tất cả vẻ đẹp của nàng
phơi ra trước mắt ông. Bà quả là đẹp
“nghiêng thành nghiêng nước” [nhất cố khuynh nhơn
thành, tái cố khuynh nhơn quốc: nhìn một cái làm nghiêng
thành, nhìn cái nữa làm nghiêng nước]. Người
đẹp trong sách Diễm Ca chắc cũng đến thế
là cùng! Từ trên sân thượng nhìn ngắm người
đẹp “oai hùng như đạo binh chỉnh tề
hàng ngũ”(Dc 6,4), Đavit đã choáng váng: “Thôi đi,
nàng đừng đưa mắt nhìn anh nữa, đôi
mắt làm anh choáng váng rồi” (Dc 6,5)… và đầu
hàng vô điều kiện, mở toang cổng rước nàng
vào. Bat Sê-va hạ được thành và dành được
cả nước của Đavit cho con bà.
II. Ý nghĩa sự hiện
diện của bốn người phụ nữ này trong
gia phả Đức Giêsu Kitô.
Điều hiện ra ngay truớc mắt
khi đọc bản văn là mỗi lần nêu tên một
người phụ nữ là có cái gì trục trặc trong
dòng “sinh”, và mỗi người phụ nữ xuất
hiện đều là người giúp cho sự sống
được tiếp tục.
Yếu tố thứ hai cũng dễ
nhận ra là: Tama, Ra-khap, Rút đều là người ngoài
dân It-ra-en, người thứ tư mang tên là “vợ
của U-ri-gia, một người Khết” (Mt không nêu
tên thời con gái của bà!). Vậy thì các bà đã
chuyền cho Đức Giêsu dòng máu ‘dân ngọai”. Mang hai dòng
máu, Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ
của muôn dân: “Hãy đi và àm cho muôn dân trở thành môn
đệ” (Mt 28,19).
Sự hiện diện của các bà cũng
tô đậm sự quan phòng của Thiên Chúa mà bản
tổng kết gia phả diễn tả qua ba chuỗi
14.
Thiên Chúa điều khiển lịch
sử để thực hiện kế hoạch cứu
độ theo đúng lời hứa, trong đó
người phụ nữ là người đem lại
sự sống và bảo vệ sự sống, làm cho sự
sống được tiếp tục, đảm nhận
sứ mạng “mẹ của chúng sinh”.
III. Người
phụ nữ thứ năm: hài nhi và mẹ.
Cái gãy khúc trong lời văn ở câu 16 dài
hơn, lại phải chờ “ông thu thuế” tổng
kết xong rồi mới kể tiếp để giải
thích. Hình như ông thu thuế đếm lộn, từ
thời lưu đầy đến Đức Giêsu
chỉ có 13 đời, kể cả Chúa Giêsu. Cái khoảng
cách giữa ông Giuse và Chúa Giêsu xa hơn ngay trong câu
văn:
Gia-cop
sinh Giuse, chồng của bà Maria –
do bà
này mà Đức Giêsu được sinh ra gọi là KITÔ.
So sánh
với chuyện Đavit Bat Sê-va:
Đavit
sinh Sa-lô-môn do vợ của U-ri-gia:
vợ
của U-ri-gia, nhưng con lại là của Đavit!
Giuse là chồng của bà Maria
Đức Giêsu được sinh ra
từ người mẹ là Maria,
nhưng lại không thể nói Giuse sinh
Đức Giêsu do bà Maria. Tại sao?
Mt giải thích khúc mắc này:
Bà Maria và ông Giuse là vợ chồng nhưng
chưa rước dâu nên chưa về sống chung.
Bà đã có thai do quyền năng Thánh
Thần.
Nếu vậy làm sao Đức Giêsu là “con
của Đavit” được?
Trong bản văn thì đây là điểm
thắc mắc chứ không phải việc bà có thai do
quyền năng Thánh Thần. Sau này Đức Giêsu sẽ
ra câu đố ngược lại: “Nếu Vua Đavit
gọi Đấng Kitô là Chúa Thượng, thì làm sao
Đấng Kitô lại là con vua ấy được?”
và “Không ai đáp lại Người được
một tiếng” (Mt 22,45-46).
Bản văn còn kể về phản
ứng dứt khoát của Giuse để cho thấy bào thai
bà đang mang đó không phải là con của ông.
Sứ thần của Chúa cũng khẳng
định cái bào thai trong lòng bà Maria là do quyền năng
Thánh Thần. Chỉ cần ông Giuse rước vợ
về nhà để bà sinh con trong nhà ông, và ông, với tư
cách “con của Đavit” phải đặt tên cho đứa
con, để đứa con cũng thành “con của
Đavit”. Mt còn bồi thêm một câu: ông làm theo lời
sứ thần: cấp tốc rước vợ về nhà,
“nhưng ông không ăn ở với bà, cho đến khi
bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là
Giêsu”. Ông Giuse không tham dự vào việc “do bà mà
Đức Giêsu được sinh ra”. Cách nói thụ
động “được sinh ra” mà không phải do ông Giuse
hay một người đàn ông thì chỉ có “do Thiên Chúa”.
Mt giải thích “do quyền năng Thánh Thần”.
Kể từ lúc này thì cụm từ “hài
nhi và mẹ” sẽ được lặp đi lặp
lại. “Hài nhi và mẹ” như gắn chặt với
nhau. Ông Giuse thành người bảo vệ mạng sống
cho “hài nhi và mẹ”, nhưng Thiên Chúa sai sứ thần
trực tiếp truyền lệnh cho ông. Ông là người
tôi tớ trung thành, luôn mau mắn thi hành lệnh của
Thiên Chúa để bảo vệ “hài nhi và mẹ”.
Khỏang
cách giữa ông Giuse và Đức Giêsu được
diễn tả rõ ràng, vì bản văn kể Đức
Giêsu là đời thứ 14, nhưng đếm kỹ thì
ông Giuse là đời thứ mười hai. Bỏ trống
một đời giữa ông Giuse với Chúa Giêsu, không
phải Mt đếm lộn hay bỏ sót! Cái
khoảng trống ấy khiến chúng ta thắc mắc và
chú ý tới lời giải thích theo sau để biết
sự thật về Đức Giêsu. Khoảng trống
một đời cũng là để cho thấy có một
sự sống mới đột nhập vào lịch sử
sự sống của loài người. Chúa Giêsu sẽ
mời gọi đánh đổi tất cả để
giữ được sự sống mới này (Mt 18,5-9).
Bà Maria
Mẹ của hài nhi Giêsu chính là người phụ nữ
đem lại cho chúng ta sự sống mới này, sự
sống đến thẳng từ Thiên Chúa, do quyền
năng Thánh Thần.
Bà quả là Evà
mới, Mẹ của chúng sinh:
Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống,
được vui, được cậy…
Giêrusalem,
lễ Giáng Sinh 2013.
L.M.
Giuse Nguyễn Công Đoan, S.J.
Giám đốc Giáo Hoàng Học Viện
Thánh Kinh Gierusalem
email: ncongdoansj@gmail.com
|