Thánh gia thất, Chúa Nhật, Ngày 29 tháng 12 năm 2013 Mùa Giáng Sinh Năm A
Thánh Tôma Becket, Giám Mục Tử Đạo (1118 - 1170) * Gương Thánh nhân
Thánh Tô-ma Béc-kết sinh năm 1118 tại Luân-đôn. Ngài là vị Tổng Giám mục đã bênh vực quyền lợi của Hội thánh cho đến chết, đã đổ máu ra một cách can đảm, xứng đáng vị thánh tử đạo cho mọi người tôn kính và noi gương. Sở dĩ thánh nhân được vinh hiển như thế là nhờ sự giáo dục cần mẫn của cha mẹ. Ngài đã học được nơi cha ngài lòng kiên quyết cương trực, và nhận nơi mẹ tấm lòng sốt mến cậy tin. Sau khi học xong, thánh nhân được Đức Tổng Giám mục giáo phận Căn-tô-bê-ri mời giúp việc. Ngài làm việc tận tụy nhiệt thành, đến nỗi vua Hen-ri thứ 2 đem lòng mộ mến, và đặt ngài làm chưởng ấn trong triều đình. Vì vâng lời, ngài buộc lòng lãnh chức vụ, nhưng vẫn tha thiết phụng sự Chúa hơn. Năm 1161, Đức Tổng Giám mục qua đời, nhà vua buộc ngài lên kế vị, lúc đó ngài chỉ là tổng phó tế. Ngài phải lo chuẩn bị tâm hồn và học hỏi thêm. Và ngày 3 tháng 6 năm 1162, thánh nhân chịu chức Linh mục và hôm sau lãnh chức Giám mục. Từ ngày lên làm Tổng Giám mục, thánh nhân đem hết tài lực phục vụ Chúa và Giáo hội. Ngoài ra việc củng cố lòng đạo cho các tín hữu, ngài còn đặc biệt chăm sóc hàng giáo sĩ, và kêu gọi các Giám mục trong tổng giáo phận chu toàn sứ vụ Chúa phú giao. Ngài nói với các Giám mục: “Nếu chúng ta lo sống xứng đáng với danh xưng của chúng ta, nếu chúng ta muốn biết ý nghĩa tên gọi chúng ta là Giám mục, là thượng tế, thì chúng ta phải ân cần suy nghĩ và bắt chước gương Đấng là Thượng Tế đời đời Thiên Chúa đã đặt, Đấng vì ta đã dâng mình cho Chúa trên bàn thờ thập giá, Đấng từ đỉnh trời cao đang xem xét mọi hành động và ý tưởng thúc đẩy người ta hành động, để sau cùng thưởng công cho mỗi người tùy việc họ làm… “Cần phải có nhiều kẻ trồng, kẻ tưới, vì đó là điều cần thiết để Lời Chúa được lan rộng và dân Chúa được tăng triển…” “Nhưng cho dù ai là người trồng, người tưới đi nữa, Thiên Chúa chỉ “ban sự tăng trưởng” cho những kẻ trồng trong đức tin của Phê-rô và trung thành với giáo huấn của Ngài…” “Cũng cần nhớ lại cha ông chúng ta đã được cứu rỗi thế nào? Hội thánh phải trải qua đau khổ như thế nào để phát triển và lan rộng? Cũng như con thuyền Phê-rô, con thuyền đó chính là Đức Ki-tô là người cầm lái, đã phải vượt sóng gió thế nào? Và những kẻ mà đức tin đã sáng ngời trong lao khổ đã đạt được triều thiên làm sao? Tất cả các thánh đã trải qua như thế để ứng nghiệm luôn điều đã nói rằng: không được hưởng triều thiên, nếu không chiến đấu xứng đáng”. Lúc đó thánh nhân với nhà vua rất tâm đắc. Việc gì trong đạo ngoài đời các ngài cũng bàn tính với nhau, hợp tác với nhau, để mưu cầu lợi ích cho xã hội và Giáo hội. Nhưng về sau, vì nghe lời phỉnh nịnh của các cận thần ích kỷ vụ lợi, nhà vua trở lại thù ghét thánh nhân, buộc ngài phải nộp tất cả tài sản của Giáo hội cho nhà nước. Ngài nhất định không giao nộp và cương quyết cự tuyệt đến cùng. Nhà vua nổi giận, định bắt ngài đi đày, nhưng ngài lánh sang nước Pháp trú ẩn vào năm 1164. Đang lúc ngài trú ngụ trong các tu viện, nhà vua hăm dọa sẽ tận diệt tu viện nào chứa chấp dung dưỡng ngài, nên ai nấy đều sợ hãi hất hủi ngài. Ngài phải sống vất vả khổ cực, gần 6 năm trời ở đất khách quê người. Khi nghe biết việc nầy, Đức Giáo Hoàng đã quở trách vua Hen-ri. Nhờ đó mà ông ta bớt hung hăng bắt bớ thánh nhân. Thấy tình thế có phần êm dịu, thánh nhân muốn trở về giáo phận. Nhiều người thương sợ ngài chết, nên tìm cách ngăn cản ngài. Nhưng ngài tuyên bố: - Dù có chết, tôi cũng trở về. Vì đã 6 năm rồi, tôi phải xa cách đoàn chiên của tôi. Lòng mộ mến đoàn chiên đã thúc đẩy thánh nhân trở lại quê hương, mặc dầu ngài biết ở đó rất nhiều nguy khổ đang đợi ngài. Thế là năm 1170, thánh nhân đã về đến giáo phận Căn-tô-bê-ri… Chuông đổ vang trời, giáo dân giáo sĩ hân hoan chào mừng đón tiếp ngài vào nhà thờ chánh tòa. Lời nói đầu tiên của ngài là: - Tôi trở về đây để chết giữa anh em. Và đúng như lời thánh nhân tiên báo, ngày 29 tháng 12, đang lúc ngài đọc kinh chiều trong nhà thờ, một nhóm người lạ mặt xông đến chém bổ vào ngài. Máu tuôn trào, ngài ngã gục bên cạnh bàn thờ… Và năm 1173, Đức Giáo Hoàng A-lét-xăn thứ 3 đã tấn phong ngài lên bậc Hiển thánh. * Quyết tâm
Noi gương thánh Tô-ma Béc-kết, hằng ngày sẵn sàng chịu khổ chịu cực vì Chúa, và can đảm bênh vực Hội thánh. * Lời nguyện Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Giám mục Tô-ma một tâm hồn quảng đại, dám hy sinh tánh mạng vì công lý. Xin nhận lời thánh nhân chuyển cầu, mà cho chúng con biết liều mạng sống ở đời nầy vì Đức Ki-tô, để tìm lại được ở trên trời… Chúng con cầu xin…
|