Tam Điểm là gì ? Giáo Hội nghĩ chi? Phần III và Phần IV Chủ đề: Tam Diem - phan 3 - Toan Cau Hoa Chúng ta vẫn nghe thấy nói đến vấn đề "globalization" nghĩa là toàn cầu hóa, một vấn đề nghe rất văn minh và hiện đại, chẳng những về kinh tế là lãnh vực chính, mà còn liên quan đến cả các lãnh vực khác nữa, nhất là đến chính trị, bao gồm cả lãnh vực văn hóa và tôn giáo. Thế nhưng, theo diễn tiến cho tới nay thì chúng ta thấy Giáo Hội vẫn cảnh báo về vấn đề toàn cầu hóa này. Hội Nghị Đại Học Đường Công Giáo 5 ngày tại Rôma được chấm dứt vào Thứ Sáu 6/12/2002, một hội nghị được tổ chức bởi Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo và Liên Hiệp Quốc Tế Đại Học Đường Công Giáo. Thứ Năm 5/12/2002, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, qua một cuộc triều kiến riêng cùng thành phần điều hành, giáo sư và sinh viên, đã ban huấn từ cùng thành phần tham dự hội nghị bàn về chủ đề “Vấn Đề Toàn Cầu Hóa và Ngành Giáo Dục Cao Cấp Công Giáo: Những Niềm Hy Vọng và Thách Đố”, ĐTC đã cảnh giác họ như sau: “hãy tinh khôn trong việc nhìn thấy nơi vấn đề tiến bộ về khoa học và kỹ thuật, cũng như nơi hiện tượng toàn cầu hóa, cả những gì hứa hẹn cho con người và nhân loại, lẫn những nguy hiểm do những tiến bộ và hiện tượng này gây ra cho tương lai” (người dịch tự ý nhấn mạnh).
Bởi vì, về phương diện kinh tế, toàn cầu hóa càng làm cho các nước giầu thêm giầu các nước nghèo càng nghèo; về phương diện chính trị thì càng là cơ hội cho các cường quốc thực hiện chính sách tân thực dân đế quốc; về phương diện văn hóa càng là dịp lan tràn văn hóa sự chết từ các cường quốc Tây phương đến các nước nhược tiểu hay đang phát triển; và về phương diện tôn giáo càng làm cho con người trở nên hòa đồng tôn giáo, đạo nào cũng là đạo v.v. Bởi thế, theo chiều hướng này thì "toàn cầu hóa" phải nói là "âm mưu lịch sử" của Tam Điểm trong việc thực hiện chủ trương "tam vô" của những đầu óc satan đang muốn xây dựng một "Trật Tự Thế Giới Mới": vô thần nơi tôn giáo, vô chủ nơi chính quyền và vô sản nơi kinh tế.
Email lần 1 chúng ta điểm mặt Tam Điểm, email lần 2 chúng ta thấy "âm mưu lịch sử" của Tam Điểm là nhắm đến một "Trật Tự Thế Giới Mới", và ở email 3 này, chúng ta sẽ thấy "âm mưu lịch sử" của Tam Điểm trên thực tế là nhắm đến tình trạng "Toàn Cầu Hóa", qua những cơ cấu tổ chức có thật ở Hoa Kỳ, chẳng hạn như: Hội Đồng Liên Hệ Ngoại Giao (Hoa Kỳ), Pratt House, Cơ Quan Rockefeller, tờ phát hành Foreign Affairs v.v. Chúng ta sẽ đọc thấy một bí mật quân sự sau đây:
"Căn nhà hiện hữu của Việc Thiết Kế là Pratt House, ở góc đại lộ Park và đường 68 thuộc thành phố Nữu Ước, ngay thẳng con đường từ tòa lãnh sự Sô Viết tới trụ sở Liên Hiệp Quốc. Đây là những cơ cấu đầu não của Hội Đồng Liên Hệ Ngoại Giao (Hoa Kỳ), và từ đó, Việc Thiết Kế tung ra cho nhiều trung tâm thẩm quyền... như Bộ Nội Vụ Hoa Kỳ, Bộ Ngân Qũi Hoa Kỳ, Ngân Hàng Xuất Nhập Cảng, Ngân Hàng Chase Manhattan, Ngân Hàng First National City, Cơ Quan Rockefeller, Cơ Quan Ford, Đại Học Harvard, Đại Học Yale, Đại Học Columbia, Tờ Washington Post, Tờ New York Times, Tờ Los Angeles Times v.v.".
Bài email lần 3 về Tam Điểm này được nghiên cứu từ hai cuốn sách sau đây: TNWO - The New World Order, Pat Robertson, Word Publishing, 1991; NWO - The New World Order: Chronology and Commentary, Dennis Laurence Cuddy, Ph.D. and Robert Henry Goldsborough, The American Research Foundation, Inc. Baltimore, MD, 1992, trong cuốn Hận Thù Quyết Thắng của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, xuất bản năm 1996. 'Mỗi một đền thờ Tam Điểm là một đền thờ của tôn giáo'. 'Nhà lập luật tiên khởi của Tam Điểm ... là Phật Tổ'. 'Tam Điểm, mà vây chung quanh bàn thờ của mình là tín đồ Kitô, Do Thái, Hồi Giáo, Ấn Giáo, những môn đồ của Khổng Giáo và Thánh Hỏa Giáo (Zoroaster), có thể hội họp lại như huynh đệ và hiệp nhất trong nguyện cầu cùng một Thiên Chúa là Đấng ở trên tất cả mọi Baalim' (theo gốc tích của danh xưng này xin tạm dịch là Thần Tượng).
'Mọi sự tự bản chất tốt lành đều phát xuất từ Osiris' (là Thần Mặt Trời của người Ai Cập được biểu hiệu bằng một con mắt toàn kiến, 'the all-seeing eye')' (theo người đang chuyển dịch những giòng này, thì hình ảnh con mắt thấu thị này đã được sử dụng ngay ở trên mặt một đồng đôla của Mỹ như trang 220 đề cập đến)
'Tam Điểm... dấu kín những bí nhiệm của mình khỏi tất cả mọi hội viên, trừ những Chuyên Gia (tạm dịch từ chữ Adepts) và những Thông Gia (tạm dịch từ chữ Sages), và sử dụng những dấu hiệu để lừa đảo những kẻ đáng bị lừa đảo'.
'Mọi thứ liên quan đến những giấc mơ tôn giáo có tính cách khoa học và cao trọng của Những Nhà Tinh Anh ... được vay mượn từ Kabalah; tất cả mọi hiệp hội Tam Điểm mắc nợ nó về những bí nhiệm và biểu hiệu của mình'. (Chữ Kabalah, theo người dịch nghiên cứu từ cuốn Dictionary of Phylosophy and Religion, William. L.Reese, Humanities Press Inc., New Jersey, reprinted 1989, ở trang 75, cũng được viết là Cabala, là một danh xưng tổng hợp cho những vấn đề cũng như những cuốn sách liên quan đến một loạt những điều huyền nhiệm được khai triển trong cộng đồng Do Thái vào thời những thế kỷ tiền Kitô giáo cho đến thế kỷ 14, có tính cách chống lại những giáo điều truyền thống của Do Thái Giáo).
'Phải, Luxiphe là Thiên Chúa, và tiếc thay, Adonay cũng là Thiên Chúa... Luxiphe, Thiên Chúa của Ánh Sáng và là Thiên Chúa của Thiện Hảo đang tranh đấu cho nhân loại chống lại Adonay, Thiên Chúa của Tối Tăm và của Ác Tà' (Albert Pike, Thượng Chủ của Tam Điểm Hoàn Vũ, Những Huấn Dụ nhắn gửi 23 Hội Đồng Tối Cao của Thế Giới ngày 14 tháng 7 năm 1889)
"Vào tháng 6 năm 1931, trong một diễn văn trước Học Viện Nghiên Cứu về Các Giao Dịch Quốc Tế ở Copenhagen, giáo sư sử gia danh tiếng Arnold Toynbee đã ngỏ lời cùng các đồng chí tinh anh của mình là: 'Chúng ta hiện nay đang bí mật làm việc với tất cả năng lực của chúng ta, trong việc tranh đấu để làm sao tạo nên được một tối thượng quyền chi phối cả những chủ quyền ở các chính phủ quốc gia địa phương trên thế giới. Miệng lưỡi chúng ta lúc nào cũng chối bỏ những gì chúng ta đang dùng bàn tay của mình để mà thực hiện, bởi vì, để công kích chủ quyền của chính phủ tại các quốc gia địa phương trên thế giới vẫn còn là một tà thuyết, mà chính khách hay công pháp nhân nào dám lên tiếng, nếu không hoàn toàn bị thiêu trói, chắc chắn họ cũng sẽ bị khai trừ và mất tín nhiệm'" (NWO trang 33)
"Được thành lập năm 1921 và 1922, Hội Đồng Liên Hệ Ngoại Giao (Hoa Kỳ) đã vững vàng lớn mạnh và trở nên thế lực đến nỗi, vào cuối thập niên 1930 và đầu thập niên 1940, những phần tử của Hội Đồng Liên Hệ Ngoại Giao này đã độc chế chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ - một chính sách được phác họa để hủy diệt thượng quyền và nền độc lập của Hoa Kỳ, qua việc gia nhập vào một tổ chức chính quyền thế giới theo xã hội chủ nghĩa. Đúng thực là vì một 'Trật Tự Thế Giới Mới' mà Hội Đồng Liên Hệ Ngoại Giao đó, cùng với những phần tử của mình, vẫn đang mưu đồ và phác họa ra nhiều thứ trong thế kỷ này". (NWO trang 46)
"Căn nhà hiện hữu của Việc Thiết Kế là 'Pratt House, ở góc đại lộ Park và đường 68 thuộc thành phố Nữu Ước, ngay thẳng con đường từ tòa lãnh sự Sô Viết tới trụ sở Liên Hiệp Quốc. Đây là những cơ cấu đầu não của Hội Đồng Liên Hệ Ngoại Giao (Hoa Kỳ), và từ đó, Việc Thiết Kế tung ra cho nhiều trung tâm thẩm quyền... như Bộ Nội Vụ Hoa Kỳ, Bộ Ngân Qũi Hoa Kỳ, Ngân Hàng Xuất Nhập Cảng, Ngân Hàng Chase Manhattan, Ngân Hàng First National City, Cơ Quan Rockefeller, Cơ Quan Ford, Đại Học Harvard, Đại Học Yale, Đại Học Columbia, Tờ Washington Post, Tờ New York Times, Tờ Los Angeles Times v.v." (TNWO trang 96)
"Trong chính sách cai trị, biểu hiện rõ ràng nhất của Việc Thiết Kế là Hội Đồng Liên Hệ Ngoại Giao cùng với tờ phát hành Foreign Affairs. Trong số chừng 2900 phần tử có tối thiểu là 500 vị rất uy quyền, 500 phần tử khác ở trong những trung tâm thế lực, và con số còn lại toàn là những phần tử có tiếng tăm về học thức, truyền thông, thương mại cũng như tiền bạc, quân sự hay chính quyền... "Theo một người đã từng là một phần tử của Hội Đồng này 15 năm, đó là ông Rear Admiral Chester Ward thì: 'Mục đích vận động cho việc giải giới và nhận chìm thượng quyền cũng như nền độc lập quốc gia của Hoa Kỳ vào một chính quyền hoàn vũ toàn quyền là mục tiêu duy nhất được tỏ ra cho độ 95% trong số 1551 phần tử (vào năm 1975). Ngoài ra, còn có những mục đích sâu xa khác mà Hội Đồng Liên Hệ Ngoại Giao (Hoa Kỳ) đang dùng ảnh hưởng của mình để cổ động' nhưng không thể có hơn 75 phần tử biết được là gì, những mục đích này cũng không bao giờ được hiện lên trên mặt giấy.'" (TNWO trang 96-97)
"Năm 1946, ngày sau Thế Chiến Thứ Hai, một bản tường trình của Cơ Quan Rockefeller đã không ngần ngại phát biểu: 'Cuộc thách đố của tương lai là tạo nên một thế giới này đây'. Trong vòng 45 năm vẫn không có gì sai trệch cả. Chính Rockefeller Brothers Fund, năm 1989 có 242.120.725 đôla, đã tài trợ 7.999.659 đôla cho những công cuộc hiển nhiên theo đuổi mục đích thực sự về việc thiết kế một chính sách toàn cầu. Chiếc mặt nạ này đã bị lật tẩy trong câu phát biểu công khai đáng giá về mục đích này như sau: 'Hỗ trợ những nỗ lực ở Hoa Kỳ cũng như hải ngoại để đóng góp những tư tưởng, tạo nên những nhà lãnh đạo, và khuyến khích những tổ chức trong việc chuyển tiếp sang một nền liên độc lập toàn cầu'" (TNWO trang 139)
"Ông Dan Smoot, một nguyên giáo sư đại học Harvard cũng là nhân viên FBI, đã diễn tả Hội Đồng Liên Hệ Ngoại Giao (Hoa Kỳ) giống như là phần chính của 'một chính quyền vô hình' mà mục tiêu của nó là 'biến Hoa Kỳ thành một chính quyền xã hội chủ nghĩa để rồi làm cho nó trở nên một đơn vị trong một guồng máy hoàn vũ duy nhất theo xã hội chủ nghĩa'" (NWO trang 29)
"Năm 1987, 'Perestroika' của Mikhail Gorbachev được phát hành: 'Yếu tính của Perestroika nằm ở trong sự kiện là nó liên hiệp chủ nghĩa xã hội với chế độ dân chủ, và phục hồi ý tưởng của Lênin về việc kiến tạo xã hội chủ nghĩa cả về lý thuyết cũng như thực hành... Chúng ta muốn xã hội chủ nghĩa hơn nữa'" (NWO trang 22)
"Năm 1990, Gorbachev ngỏ lời tại Đại Học Stanford: 'Tất cả chúng ta đã cảm thấy chúng ta cần đến Liên Hiệp Quốc biết bao, nếu chúng ta thực sự phải tiến đến một thế giới mới, cũng như đến những loại liên hệ mới trên thế giới theo lợi ích của tất cả mọi quốc gia... Liên Bang Sô Viết và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ có dư lý do để trở thành đồng bạn với nhau trong công cuộc dựng xây này, trong công cuộc hình thành những cơ cấu bảo an mới ở Âu Châu cũng như ở vùng Thái Bình Dương Châu Á. Và, thật vậy, trong cả công cuộc tạo nên một nền kinh tế toàn cầu thực sự cùng với việc sáng tạo cho một nền văn minh mới'"
"Tổng thống Bush gọi Chiến Tranh Vùng Vịnh là cơ hội cho Trật Tự Thế Giới Mới: Ngày 11 tháng 9 năm 1990, ngỏ lời cùng Quốc Hội theo chủ đề 'Hướng Đến Một Trật Tự Thế Giới Mới', tổng thống Bush nói: 'cuộc khủng hoảng ở Vịnh Ba Tư tạo nên một cơ hội hiếm có để tiến đến một giai đoạn lịch sử hợp tác. Từ những lúc trục trặc này... mới có thể nẩy sinh một trật tự thế giới mới, trong đó, các quốc gia trên thế giới, đông cũng như tây, bắc cũng như nam, có thể thịnh vượng và sống trong hòa hợp... Hôm nay, một thế giới mới đang cựa quậy để được sinh ra'. Và trong một diễn văn ở Liên Hiệp Quốc ngày 1-10-1990, tổng thống Bush đề cập đến 'cái sức mạnh tổng hợp của cộng đồng thế giới được Liên Hiệp Quốc thể hiện... một hợp tác mới của các quốc gia... một thời điểm mà nhân loại nắm lấy vận mạng của mình... để mang lại một cuộc cách mạng về tinh thần cũng như tâm trí mà bắt đầu một cuộc hành trình tiến đến một thời đại mới'"
"Những lời phê bình của nhân viên chính quyền Ả Rập về Chiến Tranh Vùng Vịnh: Vào ngày 28-12-1990, tờ Wall Street Journal đã trích lại lời một nhân viên chính quyền cao cấp của một trong những chính quyền Ả Rập Vùng Vịnh như sau: 'Quí vị tưởng rằng tôi muốn đưa đứa con trai tuổi vị thành niên của tôi đi chết ở Kưwait hay sao? Chúng tôi có những tên nô lệ da trắng của mình ở Hoa Kỳ làm điều đó rồi'" (NWO trang 23-24)
"Gorbachev kêu gọi Trật tự Thế Giới Mới: Ngỏ lời trong Những Buổi Nói Chuyện Về Hoà Bình Ở Trung Đông vào ngày 30 tháng 10 năm 1991 ở Ma-Ní, Gorbachev phát biểu: Chúng ta đang bắt đầu thấy sự hỗ trợ thiết thực. Và đấy là một dấu hiệu hết sức quan hệ về chiều hướng tiến đến một kỷ nguyên mới, một thời đại mới... Chúng ta thấy, cả nơi cộng đồng của chúng ta cũng như ở bất cứ nơi nào khác... những bóng ma suy tư cổ hủ... Khi nào chúng ta giải tỏa mình cho khỏi sự hiện diện của chúng, chúng ta mới có thể dễ dàng hơn trong việc tiến đến một trật tự thế giới mới... dựa trên những cơ cấu liên hệ của Liên Hiệp Quốc'" (NWO trang 26)
(Phụ Bản của cuốn Hận Thù Quyết Thắng, Chương 12, tài liệu được tác giả Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, nghiên cứu và tuyển dịch)
Tam Diem (4) - Duy Nhan Ban
Tam Diem (Phần 4) - Duy Nhan Ban [đầu trang] Nếu để ý theo dõi tư tưởng của ĐTC Biển Đức XVI, chúng ta thấy ngài đã đề cập rất nhiều lần đến Chủ Nghĩa Tương Đối (relativism). Trước khi làm giáo hoàng, ngay trong bài giảng sáng Thứ Ba ngày 19/4/2005 để khai mạc cho mật nghị Hồng Y Đoàn bầu tân giáo hoàng kế vị ĐTC GPII vừa quá cố, ngài đã nhấn mạnh nhất đến chủ nghĩa tương đối này, trong số tất cả các chủ nghĩa đã và đang diễn tiến trên thế giới, như sau:
"Biết bao nhiêu là chiều gió chủ nghĩa chúng ta đã từng biết đến trong mấy thập niên qua! Biết bao nhiêu là trào lưu ý hệ! Biết bao nhiêu là trường phái tư tưởng! Con tầu nhỏ bé mang các tư tưởng của nhiều Kitô hữu thường bị xô lấn bởi những cơn sóng này, hất từ cực đoan này sang cực đoan kia: từ chủ nghĩa Marxít đến chủ nghĩa tự do (liberalism), thậm chí đến chủ nghĩa duy tự do (libertarianism); từ chủ nghĩa tập thể (collectivism) đến chủ nghĩa cá nhân cực đoan (radical individualism); từ chủ nghĩa vô thần đến chủ nghĩa tôn giáo mập mờ bí hiểm (vague religious mysticism); từ chủ nghĩa bất khả thần tri (agnosticism) đến chủ nghĩa hòa đồng (syncretism) v.v. Ngày nào cũng có những thứ giáo phái mới, khiến cho những lời của Thánh Phaolô nói trở thành sự thật về việc con người bị lừa đảo và về cái tinh quái làm cho con người bị lầm lạc. Có một đức tin minh tường, theo Kinh Tin Kính của Giáo Hội, thường được gán cho là chủ nghĩa thủ cựu (fundamentalism). Khi chủ nghĩa tương đối (relativism), nói cách khác, khi để cho mình ‘bị xô đẩy theo chiều gió chủ nghĩa’ lại được cho là thái độ duy nhất thích hợp với thời đại tân tiến, thì đó là lúc cái độc đoán của chủ nghĩa tương đối được hình thành, một chủ nghĩa cho rằng không có gì là tuyệt đối và là một chủ nghĩa chỉ căn cứ vào duy bản thân mình và những gì nó ước muốn". Căn cứ vào "mưu đồ lịch sử" của Tam Điểm trong mục tiêu xây dựng một "Trật Tự Thế Giới Mới" bằng chính sách "Toàn Cầu Hóa" thì chủ nghĩa tương đối có thể nói là con đẻ của Tam Điểm hay theo đúng chiều hướng của Tam Điểm. Vì tâm trí của con người, bao gồm các phán đoán kỳ lạ và chọn lựa quái gở của con người, đã và đang càng ngày càng bị chủ nghĩa tương đối "toàn cầu hóa" theo một "trật tự thế giới mới", một thứ trật tự không xuất phát từ và hoàn toàn khác với dự án của Đấng Hóa Công Tối Cao ngay từ ban đầu cũng là Đấng Quan Phòng Thần Linh trong giòng lịch sử của loài người. Chủ nghĩa tương đối này chính là chân tướng của chủ nghĩa duy nhân bản là chủ nghĩa tôn sùng con người, hoàn toàn phản lại với thứ nhân bản đích thực được Giáo Hội chủ trương và giảng dạy. Sau đây là những cảm nhận của người viết kèm theo những tài liệu quan trọng (cả đời lẫn đạo) liên quan đến chủ nghĩa duy nhân bản chủ trương tôn sùng con người như là một ngẫu tượng "duy ngã độc tôn" thay Thiên Chúa, một chủ trương đã bị Huấn Quyền lên án qua các vị giáo hoàng từ giữa thế kỷ 19... Xin mời theo dõi và hiệp thông cầu nguyện!
"Trào lưu luân lý nhân tạo" là một triệu chứng hiển nhiên nhất, cũng là một hiện tượng sôi nổi nhất trong thế giới tân tiến hiện nay, nói lên một thảm trạng có thể nói là duy nhân bản. Thật ra, nhân bản tự bản chất vốn tốt lành, như chính phẩm giá của con người, yếu tố nền tảng làm nên những gì gọi là nhân bản (nhân tính và nhân vị), hay làm nên những gì liên quan đến nhân bản (nhân quyền và nhân cách).
Bởi thế, nếu bỏ nhân bản đi, không đặt con người làm trọng tâm của và là cùng đích cho mọi hoạt động trần thế của mình, xã hội loài người, một là sẽ trở về thời bán khai sống theo luật rừng, mạnh được yếu thua, không hơn gì loài thú, hai là sẽ duy vật, như chủ trương của cộng sản thuyết, dùng con người như một sở vật vô sản, chẳng khác gì một bộ phận trong guồng máy chế độ để quay cuồng sản xuất một cách vô hồn và vô vọng...
Tuy nhiên, nhân bản đáng giá và đáng tôn trọng không phải là chỉ vì mối liên hệ xã hội giữa loài người với nhau mà thôi. Nếu nhân bản chỉ dựa trên cảm thức và cảm nghiệm là: tôi cần phải tôn trọng anh vì nếu không anh sẽ không tôn trọng tôi, thì thứ nhân bản này vẫn còn quá tiêu cực và thiếu sót, không có tính cách đại đồng và siêu việt đúng như nguồn gốc có tính cách thần linh của nó. Và vì thế mà, cuối cùng, thứ duy nhân bản này cũng sẽ lại đưa con người trở về với luật "mắt đền mắt, răng đền răng", mà kết cục là "khôn sống mống chết", không hơn luật rừng là bao nhiêu, hay ai mạnh thì sống, như chủ trương đấu tranh giai cấp theo chủ thuyết cộng sản vô thần.
Bởi thế, duy nhân bản là chủ thuyết hay khuynh hướng tôn sùng con người thái quá, đến nỗi, coi con người là chủ tể duy nhất, ngoài ra không còn thượng đế, không còn thần linh, không còn Thiên Chúa nào khác. Từ đó và bởi đó, tất cả những gì con người nghĩ là đúng, muốn là tốt. Điển hình nhất là trào lưu luân lý nhân tạo ngày nay, một trào lưu luân lý chủ quan, bất chấp những nguyên tắc luân lý phổ quát, một trào lưu sống theo lương tâm của mình, tự "biết lành biết dữ" (KN. 3:5), ở chỗ cái gì mình cho là tội mới có tội.
Như thế, có thể nói, nếu "phản Kitô" là tinh thần của thần dữ, thành phần chống đối, không chấp nhận Thiên Chúa như Ngài là và từ đó muốn nên bằng hay hơn Thiên Chúa, thì "duy nhân bản" là tinh thần trần tục của con người là loài cũng muốn chẳng những nên giống như mà còn thay Thiên Chúa nữa. Tuy nhiên, theo thời gian, chủ nghĩa duy nhân bản có sau tinh thần "phản Kitô", vả lại, theo nguồn gốc, lại do chính tên "phản Kitô" đầu đảng trá hình trong "con cựu xà" mà có. Thế nên, theo tính cách của mình, chủ thuyết duy nhân bản chính là "hình ảnh của con mãnh thú thứ nhất" (KH 13:15). Và, theo tiến trình, chủ nghĩa duy nhân bản phát triển là nhờ "con mãnh thú thứ hai ban sự sống cho" (KH 13:15). Để rồi, nhờ môi trường hết sức béo bở ngày nay, là ý thức nhân quyền cao độ và quyền năng kỳ diệu nơi khoa học và kỹ thuật của con người, chủ nghĩa duy nhân bản hầu như đã đạt đến tầm vóc viên trọn quá cỡ, thậm chí quá ư là kệch cỡm, của mình.
Thế nhưng, theo bản chất, duy nhân bản là tự thần linh hoá bản thân, mà ai cũng cho mình và muốn mình là Chúa, là đầu của nhau và muốn làm đầu nhau. Bởi vậy, không lạ gì xã hội loài người đã mọc lên vô số đầu mục, như "con khổng long" hay "con mãnh thú từ biển tiến lên" cả hai đều "có 7 đầu" (KH 12:3' 13:1). Mà bởi vì "không ai có thể làm tôi hai chủ" (Mt.6:24), nên kể từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay là thời điểm lịch sử loài người đang ở vào giữa thập niên 1990 trước khi kết thúc kỷ nguyên thứ hai, thế giới đã, đang và còn trở thành một bãi chiến trường, để các đầu mục giành nhau ngôi báu, bằng cách tàn sát lẫn nhau. Và cuộc chiến duy nhân bản này sẽ kéo dài cho đến khi, theo quan điểm trần gian và đà hướng chính trị, sẽ có và phải có một trật tự thế giới mới (New World Order), được lãnh đạo bởi một đầu óc độc tài chuyên chế nhất và bằng một bàn tay sắt máu nhất.
Sau đây là một bản hiến chương tiêu biểu nhất về chủ thuyết duy nhân bản (humanism) trong "Humanist Manifesto I", chủ trương 15 tuyên ngôn đã được một triết gia người Hoa Kỳ là John Dewey (1859-1952) và các đồng chí của ông ta ký kết vào năm 1933. "Những nhà nhân bản về tôn giáo coi vũ trụ này như tự mình hiện hữu chứ không phải là được dựng nên. "Chủ thuyết nhân bản tin rằng con người là thành phần của thiên nhiên và xuất thân như thành quả của một tiến trình liên tục. "Theo quan niệm cấu trúc về sự sống, những nhà nhân bản thấy rằng cần phải phủ nhận quan niệm truyền thống chủ trương có hai phần là tâm trí và thể xác. "Chủ thuyết nhân bản nhận thức rằng văn hóa và văn minh hữu thần của con người... là một sản phẩm tiệm tiến gây ra do cuộc tiếp xúc của con người với hoàn cảnh thiên nhiên cũng như với gia sản xã hội của mình... "Chủ thuyết nhân bản cho rằng bản chất của vũ trụ được khoa học tân tiến phác họa làm cho những bảo toàn về siêu nhiên hay vũ trụ nơi các giá trị nhân bản không thể nào chấp nhận được... đường lối để ấn định sự hiện hữu và giá trị của bất cứ hay tất cả mọi thực tại là nhờ ở việc thăm dò sáng suốt ... tôn giáo phải hình thành các hy vọng cũng như những dự án của mình trong ánh sáng của tinh thần và phương pháp khoa học. "Chúng tôi xác tín rằng chủ trương hữu thần, chủ trương thần linh đã hết thời rồi. "Tôn giáo bao gồm những hành động, những mục đích và những kinh nghiệm có một ý nghĩa nhân bản... Việc phân biệt giữa linh thánh với trần tục không còn nữa. "Chủ thuyết nhân bản về tôn giáo coi việc nhận thức trọn vẹn về nhân vị con người là cùng đích (mục tiêu) của đời sống con người, rồi tìm cách phát triển và hoàn trọn nó ở trên đời hiện tại này. Đây là... nhiệt tính xã hội (của chúng ta). "Thay cho những thái độ cổ hủ liên quan đến việc phụng thờ và cầu nguyện, nhà nhân bản tìm thấy những xúc động đạo đức của mình được diễn đạt nơi cảm thức cao vời về cuộc sống cá nhân cũng như trong nỗ lực hợp tác để cổ vhành cho nền an sinh xã hội. "Thế nên, cho đến nay, sẽ không còn những cảm xúc và thái độ đạo đức đặc thù nào liên hệ đến niềm tin vào siêu nhiên. "Con người sẽ học biết cách đối đầu với những khủng hoảng của cuộc sống bằng kiến thức của mình... Những thái độ nhân bản và hợp với lý lẽ sẽ được bồi dưỡng bằng việc giáo dục... chủ thuyết nhân bản sẽ chọn con đường lành mạnh về tâm thần cũng như về xã hội, và sẽ ngăn chặn những niềm hy vọng có tính cách cảm tình, không thật và mộng tưởng. "... Những nhà nhân bản về tôn giáo nhắm đến việc bồi dưỡng tính cách sáng tạo nơi con người "Chủ thuyết nhân bản về tôn giáo chủ trương rằng tất cả mọi hiệp hội hay cơ cấu hiện hữu là để thực hiện việc làm cho đời sống của con người được viên trọn.. Tất nhiên, những tổ chức về tôn giáo (như Giáo Hội Kitô Giáo), những thể thức về lễ nghi của họ, những phương pháp của giáo hội và những hoạt động cộng đồng phải được tái tạo cấp thời theo như kinh nghiệm cho phép... "Những nhà nhân bản mạnh mẽ xác tín rằng cái xã hội tham hưởng và thiên lợi hiện tại vẫn tỏ ra chưa trọn đủ, cần phải thiết lập một cuộc thay đổi tận gốc nơi việc kiểm soát, nơi các phương pháp cũng như nơi các động lực. Cần phải thiết định một trật tự kinh tế hỗ tương được xã hội hoá. "Chúng tôi nỗ lực để thiết định những điều kiện cho tất cả mọi người có được một cuộc sống thoải mái..." (NWO trang 43-44) Ngày 19-11-1995, Tổ chức "Wir sind Kirche" (Chúng Ta là Giáo Hội) ở Đức cho biết là họ đã nhận được hai tấn giấy tờ, mang chữ ký của 1 triệu 8 trăm ngàn người, trong đó có gần 1 triệu rưỡi là Công Giáo Rôma ở Đức, kêu gọi thực hiện một giáo hội dân chủ mới mẻ hơn, theo 5 điểm chính yếu sau đây: Một giáo hội anh chị em' (như kiểu Hội Nghị Nữ Tu trang 201-203) Quyền bình đẳng cho giới phụ nữ' (như cho phụ nữ làm linh mục) Độc thân tùy ý' (như cho linh mục được phép lập gia đình) Một thẩm giá tích cực hơn về tình dục' (như đồng tính luyến ái) Một sứ điệp vui tươi hơn là dọa nạt. (Quyền Giáo Huấn để làm cảnh) Bản văn có tính cách thuần túy dân chủ hợp thời này và mang tinh thần "bỏ đạo tập thể" (1Thes.2:3) cuối thời như thế còn được thêm 500 ngàn chữ ký ở Áo quốc. Ngoài ra, nó cũng đã được hai nhà thần học vừa nổi tiếng vừa cấp tiến là Hans Kung và Bernard Haring nhiệt liệt ủng hộ. Ngày 24-11-1995, tức 5 ngày sau khi bản tin trên đây được phổ biến, ĐTC Gioan-Phaolô II đã chia sẻ nhận định và ý định của mình với hội đồng Thánh Bộ Đức Tin như sau: "Ngày nay chúng ta phải ghi nhận là có một sự hiểu lầm lan rộng về ý nghĩa và vai trò nơi Quyền Giáo Hội Giáo Huấn.
"Đây là căn gốc của những bình phẩm và chống đối trước những công bố của Quyên Giáo Huấn của Giáo Hội, như qúi huynh đã đặc biệt vạch ra liên quan đến các phản ứng đối với không ít những vấn đề thần học và giáo hội cho đến những văn kiện mới nhất của Quyền Giáo Hoàng Giáo Huấn: Thông điệp 'Veritatis Splendor' về những nguyên tắc của tín điều luân lý và sự sống; thông điệp 'Evangelium Vitae' về giá trị bất khả phạm của sự sống con người; Tông thư 'Ordinatio Sacerdotalis" về việc không thể phong chức linh mục cho nữ giới; và Văn Thư của Thánh Bộ phụ trách Tín Điều Đức Tin về việc hiệp lễ đối với tín hữu ly dị rồi tái hôn... (số 4) "Trong các Thông Điệp 'Veritatis Splendor' và 'Evangelium Vitae' cũng như trong Tông Thư 'Ordinatio Sacerdotalis', tôi muốn nêu lên, một lần nữa, tính cách liên tục của tín điều nơi niềm tin của Giáo Hội, bằng việc xác nhận những chân lý hiển nhiên đối với Thánh Kinh, với Tông Truyền và với giáo huấn đồng nhất của các Vị Chủ Chăn. Bởi vậy, những tuyên ngôn này, bằng quyền bính được truyền ban cho Vị Thừa Kế thánh Phêrô để làm cho anh em mình vững vàng' (Lk.22:32), nói lên tính cách chắc chắn chung hiện diện trong đời sống cũng như giáo huấn của Giáo Hội. "Do đó, thật là khẩn thiết trong việc phải làm sao để phục hồi được quan niệm chuyên chính về quyền bính, không những ở lãnh vực khi được thẩm quyền long trọng công bố, mà còn, sâu xa hơn nữa, ở cả lãnh vực nó được dùng để bảo đảm, an toàn và hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo được liên tục trung thành với Thánh Truyền, nhờ đó, các tín hữu có thể gắn bó với giáo huấn của các Tông Đồ và với nguồn mạch của chính thực tại Kitô giáo này". (số 6) (ITV 1/1996, tr.13)
Từ ngày 8-12-1864, Đức Thánh Cha Piô IX đã lên án, trong Bản Liệt Kê 80 Điều Sai Lầm, những chủ trương duy nhân bản sặc mùi vô thần này, chẳng hạn ngài đã lên án các điều sau đây: 4. "Tất cả những sự thật về tôn giáo phát xuất từ khả năng tự nhiên của lý trí con người; bởi thế, lý trí là luật chính yếu nhờ đó con người có thể chiếm được và phải chiếm được kiến thức về tất cả những chân lý trong đủ mọi phương diện.. 5. "Mạc khải thần linh bất toàn, bởi đó, phải trải qua một tiến triển liên tục vô hạn định, xứng hợp với bước tiến của lý trí con người. 6. "Đức tin vào Đức Kitô phản lại với lý trí con người; và mạc khải thần linh chẳng những chẳng có lợi gì mà còn làm hại cả đến tầm mức toàn vẹn của con người nữa. 40. "Tín điều của Giáo Hội Công Giáo phản lại với phúc lợi của xã hội loài người. 42. "Trong trường hợp có những tương phản luật lệ giữa hai thẩm quyền, thì luật dân sự vẫn hơn. 56. "Những luật lệ về luân lý không cần đến tính cách chế tài thần linh, và các luật lệ nhân tạo cũng không cần phải am hợp với luật tự nhiên hay không cần phải nhận được hiệu lực từ Thiên Chúa. 80. "Giáo hoàng Rôma có thể và phải tự dung hợp với đà tiến triển, với khuynh hướng giải phóng cũng như với nền văn minh tân tiến.. (RCH trang 992-996) Chưa hết, ngày 3-7-1907, Thánh Giáo Hoàng Piô X, trong sắc lệnh "Lamentabili Sane", còn lên án 65 chủ trương của Tân Tiến Thuyết, chẳng hạn như những sai lầm tiêu biẻu sau đây: 4. "Ngay cả được định tín đi nữa, Quyền Giáo Huấn của Giáo Hội cũng không thể nào xác định được ý nghĩa chuyên chính của các Sách Thánh. 11. "Linh ứng thần linh không áp dụng cho tất cả mọi Sách Thánh, để làm cho các phần của mình, từng phần cũng như mọi phần, tránh khỏi sai lầm. 20. "Mạc khải chẳng có là gì khác ngoài ý thức con người có được về mạc khải của mình đối với Thiên Chúa. 21. "Mạc khải làm nên đối tượng của Đức Tin Công Giáo chưa hoàn tất nơi các Tông Đồ. 22. "Tín điều mà Giáo Hội nắm giữ như được mạc khải không phải là những sự thật từ trời rơi xuống. Chúng là sự cắt nghĩa về những dữ kiện tôn giáo mà tâm trí loài người có được nhờ nỗ lực. 26. "Tín điều Đức Tin được nắm giữ chỉ theo ý nghĩa cụ thể mà thôi; tức là theo những tiêu chuẩn cảm nhận của việc làm, chứ không theo những tiêu chuẩn tin tưởng. 55. "Simon Phêrô cũng chưa hề đặt vấn đề là Đức Kitô đã trao quyền thủ lãnh cho mình trong Giáo Hội. 56. "Giáo Hội Rôma trở thành thủ lãnh của mọi giáo hội không phải là do ấn lệnh của Sự Quan Phòng Thần Linh, mà chỉ là nhờ những điều kiện chính trị. 57. "Giáo Hội đã tỏ ra thù địch với đà tiến triển của các khoa học tự nhiên cũng như thần học. 58. "Chân lý không còn bất biến hơn chính con người nữa, vì nó xoay vần với, trong và qua con người. (PDG trang 71-77)
(Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, trích Hận Thù Quyết Thắng, phụ trương của Chương 9 phần II)
|