WYD: lịch sử cây Thập Giá và bức Linh Ảnh Đức Mẹ Quan Phòng cuả giới trẻ
Trần Mạnh Trác Nguồn: Vietcatholic News
Ngày 6 tháng 7 vừa qua, hai biểu tượng cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới (WYD) là cây thập giá* và bức linh ảnh ĐM đã được rước về Rio de Janeiro.
*(gọi là thập giá (cross) thay vì thánh giá (crucifix) vì không có tượng Chuá bị đóng đinh)
Hai biểu tượng đã mau chóng trở thành biểu tượng cuả giới trẻ, được du hành vòng quanh Thế Giới đã 30 năm, di chuyển bằng mọi phương tiện từ máy bay cho đến thuyền đánh cá, từ xe hơi cho đến xe kéo chó và dừng chân ở mọi ngõ ngách từ các đại thánh đường nguy nga cho đến những nhà tù tăm tối, từ các trung tâm thương mại nhộn nhịp cho đến những công viên quốc gia hiu quạnh.
Đức Tổng Giám Mục Orani Tempesta chủ sự thánh lễ tiếp nhận tại nhà thờ chính tòa St Sebastian cho biết "kể từ Tháng Chín năm 2011, (hai biểu tượng) đã du hành khắp Brazil, đến thăm không chỉ các giáo phận nhưng cũng tới các trường học, nhà tù, quảng trường và các bộ lạc cuả dân bản xứ," Đức Tổng Giám Mục nói "Bằng cách này, thông điệp của Chúa Kitô đã tới với tất cả mọi người đàn ông và phụ nữ của Brazil."
"Đây là những biểu tượng cho thấy vẻ đẹp của đức tin Kitô giáo, sự phục sinh của Chúa Kitô qua thập giá, qua cuộc sống của tất cả chúng ta, và cùng một lúc niềm vui của những người trẻ, những người mà trong những năm qua đã nhìn thấy thêm một chút gì về cuộc đời của mình, ước mơ của mình, công việc của mình, niềm vui của mình, qua các biểu tượng này".
Khi hàng triệu thanh thiếu niên tập trung tại đại hội Ngày Giới Trẻ ở Rio, cây thập giá và bức linh ảnh ĐM sẽ đồng hành với họ trong mọi chương trình sinh hoạt và sẽ đem lại nhiều ơn ích như đã từng xảy ra trong lịch sử.
Lịch sử cây thập giá WYD
Cây thập giá WYD có nhiều tên gọi: Thập Giá Năm Thánh, Thập Giá Thánh Du, Thập Giá Giới Trẻ.
Cây Thập Giá là kỷ vật cuả năm 1984, Năm Thánh Cứu Chuộc. Khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quyết định rằng cần có một cây thập giá, biểu tượng cho đức tin, đặt gần bàn thờ chính của Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, để mọi người có thể nhìn thấy suốt năm, thì người ta đã dựng lên một cây thập giá bằng gỗ lớn, cao 3.8 m, đúng như ý ngài mong muốn.
Vào cuối Năm Thánh, sau lễ đóng cửa đền thánh (cửa giữa cuả đền thánh), Đức Giáo Hoàng đã trao cây thập giá này cho các người trẻ trên thế giới, đại diện bởi những thanh thiếu niên đang sinh hoạt tại Trung tâm Thanh niên quốc tế Saint Lawrence ở Rôma. Lời nói của ngài nhắn nhủ trong dịp này là: "Các bạn trẻ thân mến, trong dịp bế mạc Năm Thánh, tôi phó thác cho các bạn dấu hiệu của Năm Thánh này: Thập Giá của Chúa Kitô! Hãy đưa nó đi vòng quanh thế giới như là dấu hiệu của tình yêu của Chúa Giêsu đối với nhân loại và loan báo cho tất cả mọi người rằng chỉ qua sự chết và sự sống lại cuả Chúa Kitô mới có ơn cứu chuộc và sự cứu rỗi ".
Các bạn trẻ đã thực hiện ước nguyện của Đức Thánh Cha, là đưa cây Thập Giá đi vòng quanh thế giới. Trung tâm Saint Lawrence trở thành nhà ở của cây thập giá mỗi khi không có chương trình hành hương.
Cuộc du hành đầu tiên là đến Munich ở Đức để tham dự "Katholikentag" (Ngày Công Giáo) cử hành vào tháng Bảy năm 1984. Vì chỉ là một cây thập giá bằng gỗ thô sơ cho nên lúc đầu không ai chú ý đến nó. Chỉ sau khi những quan chức nhận ra rằng đây là một kỷ vật mà Đức Thánh Cha có lòng lưu luyến thì nó mới được đưa lên cạnh bàn thờ cho mọi người nhìn thấy.
Sau đó, cuộc du hành đã đi qua Lourdes, Paray-le-Monial và nhiều nơi ở Pháp rồi lại về Đức một lần nữa. Khi nghe điều này, Đức Giáo Hoàng nói, "Họ nên mang nó qua Prague cho Đức Hồng Y Tomasek". Lúc đó, Tiệp Khắc còn là một quốc gia sau bức màn sắt và mãi đến tháng Giêng năm sau, 1985, một nhóm thanh niên Đức mới có thể đưa cây thập giá đến Prague theo như ước nguyện của Đức Thánh Cha.
Năm 1985 cũng là Năm Thanh Niên Quốc tế được công bố bởi Liên Hiệp Quốc, và 300.000 người trẻ đã gặp gỡ Đức Thánh Cha tại quảng trường Thánh Phêrô vào Chúa Nhật Lễ Lá. Cây Thập Giá một lần nữa lại xuất hiện tại cuộc họp đó, rồi sau đó, được rước đi nhiều cuộc họp thanh thiếu niên, nhiều cuộc hành hương, và dẫn đường nhiều đoàn rước trên đường phố của châu Âu: Ý, Pháp, Luxembourg, Ireland, Scotland, Man-ta và Đức.
Những sự kiện như thế dẫn tới ý tưởng tổ chức những ngày hội cho Thanh Thiếu Niên. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố ý định tổ chức hằng năm các Ngày Thanh Niên Thế Giới, bắt đầu mỗi năm vào dịp lễ Lá.
Thế là Chuá Nhật Lễ Lá năm 1986, cây thập giá đã có mặt ở Rôma cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ nhất, và từ đó luôn luôn đồng hành với tất cả các Ngày Giới Trẻ Thế Giới.
Năm 1987 Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 2 được tổ chức tại Buenos Aires ở Argentina vào tháng Tư. Đây là lần đầu tiên cây Thập Giá đến châu Mỹ.
Năm 1988, trong chương trình luân phiên cuả Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 3, cây Thập Giá đã vượt Đại Tây Dương đến Steubenville Hoa Kỳ.
Năm 1989, Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 4, cây thập giá thực hiện chuyến viếng thăm Châu Á lần đầu tiên, tới dự Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế tại Seoul Hàn Quốc.
Chúa Nhật Lễ Lá năm 1992, nhân ngày khai mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 7 tại Rôma, một phong tục mới khởi đầu, đó là cây thập giá đã được các thanh niên Ba Lan trao tận tay cho ban tổ chức Ngày Giới Trẻ kế tiếp, là các thanh niên Hoa Kỳ.
Cây Thập Giá du hành qua toàn nước Mỹ trong năm 1993, tham dự các lễ kỷ niệm, các cuộc biểu tình, hội nghị, hành hương, và có mặt tại Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 8 tổ chức tại Denver vào tháng Tám.
Chúa Nhật Lễ Lá năm 1994, khai mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 9 tại quảng trường Thánh Phêrô, một đại diện của giới trẻ Hoa Kỳ đã trao cây thập giá cho các đại biểu thanh niên Philippines.
ở Philippine, cây Thập Giá đã thực hiện cuộc hành hương xung quanh 79 giáo phận của Phi Luật Tân, di chuyển bằng thuyền, trên vai của các thanh niên địa phương, hoặc bằng bất cứ phương tiện giao thông vận tải nào có sẵn.
Năm 2001, cây Thập Giá đã bay qua Đại Tây Dương và bắt đầu cuộc hành hương dài chung quanh nước Canada rộng lớn, di chuyển bằng máy bay thương mại, máy bay hạng nhẹ, chó kéo xe, xe tải, máy kéo, thuyền buồm và thuyền đánh cá. Đã đến thăm các nhà thờ giáo xứ, các trung tâm cải tạo thanh thiếu niên, nhà tù, trường học, trường đại học, di tích lịch sử quốc gia, trung tâm mua sắm, trung tâm thành phố, quận lỵ, hộp đêm và công viên.
Cuộc hành trình chung quanh Canada bị gián đoạn ba ngày trong năm 2002 để người ta đưa cây Thập Giá đến Ground Zero ở New York như một dấu hiệu của hy vọng cho người dân Hoa Kỳ sau thảm kịch 11 tháng 9.
Từ đó cây Thập Giá đã trở thành một biểu tượng cuả hy vọng, ở đâu cũng vậy, người ta chen nhau đến để được chạm vào nó, nắm lấy nó, và cầu nguyện chân thành.
Có rất nhiều người đã xúc động sâu sắc khi đứng trước cây Thập Giá. Những năm gần đây, số nhân chứng tăng vọt có lẽ nhờ ở phương tiện Internet dối dào. Những lời khai được lưu trữ tại Trung tâm Thanh niên Quốc tế Saint Lawrence, và trên các ấn phẩm cuả các Ngày Giới Trẻ Thế Giới. Một số người đã thắc mắc là làm thế nào mà hai miếng gỗ có thể có tác dụng như vậy về cuộc sống của một người., Bất cứ nơi nào nó đi qua, mọi người hỏi rằng bao giờ nó trở lại. Người ta nhìn thấy sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa. Thông qua Thập Giá, nhiều người trẻ có thể hiểu được Mầu Nhiệm Phục Sinh và một số có thêm can đảm để lựa chọn một cuộc sống khác tốt hơn.
Một thanh niên trẻ tuổi Canada cho biết: "Cây Thập Giá này có một tác động to lớn trên tất cả các quốc gia mà nó đi tới. Điều này trở thành hiển nhiên đối với tôi qua buổi lễ trao Thập Giá từ những bạn người Ý. Họ (các bạn trẻ Ý).. rất cảm xúc, khóc sướt mướt vì nỗi buồn phải xa rời nó. Chúng tôi, mặt khác, cũng khóc với những giọt nước mắt mừng vui vì chúng tôi đã nhận được một biểu tượng mạnh mẽ mà chúng tôi biết là sẽ có ảnh hưởng đến quốc gia của chúng tôi."
Bức Linh Ảnh ĐM Quan Phòng.
Sau năm 2003, cây Thập Giá không còn phải đi du hành đơn độc một mình nữa. Nó sẽ luôn luôn được đi kèm với một biểu tượng của Đức Trinh Nữ Maria (như chính Chúa Kitô đã đi cùng với mẹ mình trong lịch sử.)
Ngày Chúa Nhật Lễ Lá tại Rôma năm 2003, khi đoàn đại biểu Canada trao thập giá cho những thanh niên Đức, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trao phó cho họ thêm một biểu tượng về Đức Mẹ.
Biểu tượng mới là một bản sao bức linh ảnh cổ có tên là Mary Salus Populi Romani (đấng quan phòng cuả nhân dân La Mã ). Đức Giáo Hoàng nói: "Hôm nay tôi cũng phó thác cho đoàn cuả nước Đức một biểu tượng của Mẹ Maria. Từ giờ trở đi nó sẽ đi kèm với Thập Giá cuả Ngày Giới Trẻ Thế Giới. Này, đây là mẹ của các bạn! Nó sẽ là dấu hiệu của tình mẫu tử của Mẹ Maria ở gần gũi với những người trẻ, những người được ủy thác, như Thánh Gioan Tông đồ đã được ủy thác, để đón tiếp Mẹ vào trong cuộc sống của mình."
Phiên bản gốc của Bức Linh ảnh ĐM được giữ trong Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả tại Rôma. Bức ảnh cao 5 feet rộng 3 1/4 feet (1.5m x 1m), được vẽ trên một mặt gỗ dày (loại gỗ thông cedar).
Đây là bức ảnh Đức Mẹ quan trọng nhất ở Rôma, mặc dù ngày nay số người sùng kính những bức linh ảnh khác như Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có vẻ vượt trội hơn, nhưng qua nhiều thế kỷ trước, bức linh ảnh này đã có một lịch sử huy hoàng.
Bức linh ảnh Salus Populi Romani, đã có thời được gọi là Regina Caeli (Nữ Vương Thiên Đàng) là một trong những bức ảnh mà theo truyền thuyết được gọi là "ảnh cuả thánh Luca", nghĩa là do chính thánh Luca vẽ khi còn sống. Truyền thuyết kể rằng "sau khi Chúa bị đóng đinh, Đức Mẹ dọn về ở với Thánh Gioan, mang theo một vài món đồ yêu thích, trong số đó là một cái bàn do chính Chuá Giêsu đóng khi còn làm việc trong xưởng thợ cuả Thánh Giuse. Thánh Luca đã dùng chính mặt bàn này để vẽ một bức chân dung của Đức Mẹ đang bế Chuá Giêsu hài đồng. Và Thánh Luca đã vừa vẽ vừa cẩn thận lắng nghe những lời cuả Đức Mẹ kể về cuộc sống của con trai mình, do đó mà chúng ta có những sự kiện Giáng Sinh được Thánh Luca ghi lại trong Tin Mừng."
Không chắc chắn bức linh ảnh Salus Populi Romani có là bức ảnh cổ trong truyền thuyết đó không? Những khảo nghiệm trên gỗ cho biết bức ảnh có thể cũ từ khoảng thế kỷ thứ 5 cho đến thế kỷ 12 mà thôi, nghiã là không cũ đủ để được ở cùng thời với ĐM và Thánh Luca.
Dù sao thì ngay từ thời cổ bức ảnh đã được coi là kỳ diệu và đã được rước kiệu xung quanh Rôma nhiều lần. Năm 593 Thánh Giáo Hoàng Gregory đã rước qua mọi khu phố Rôma để cầu nguyện chấm dứt nạn dịch Black Plague. Đức Giáo Hoàng Piô V vào năm 1571 đã cầu nguyện cho được chiến thắng trận Lepanto và Giáo hoàng Gregory XVI vào năm 1837 đã cầu nguyện cho hết nạn dịch tả.
Năm 1953, người ta rước ảnh Mẹ qua Rôma để khai mạc năm thánh mẫu đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội. Năm 1954, bức ảnh được Đức Giáo Hoàng Piô XII trao một vương miện khi ngài thiết lập một ngày lễ mừng ĐM mới, lễ Mẹ Nữ Vương.
Các vị Giáo Hoàng Phaolô VI, Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI đều đến viếng linh ảnh Salus Populi Romani nhiều lần. Riêng Đức Giáo Hoàng đương kim Phanxicô đã đến kính viếng ngay ngày đầu tiên sau khi được bầu.
Một số nhận định chuyên môn về thông điệp Ánh Sáng Đức Tin
Vũ Văn An Nguồn: Vietcatholic News Nhân dịp Đức Phanxicô công bố thông điệp đầu tiên của ngài, tạp chí America có yêu cầu một số nhà thần học và lãnh đạo Giáo Hội tại Hoa Kỳ viết lời bình luận. Năm vị sau đây đã đáp lại lời yêu cầu này: Drew Christiansen SJ, Robert P. Imbelli, James Martin SJ, Peter Folan SJ và Christiana Z. Peppard
Biết Đấng chúng ta yêu mến,
Linh mục Drew Christiansen, S. J., cựu chủ bút của America, và hiện là học giả thỉnh giảng của Boston College, thì cho rằng thông điệp Ánh Sáng Đức Tin phần lớn phản ảnh tư duy của Đức Bênêđíctô XVI: nại nhiều tới các tiến sĩ của Giáo Hội, thánh thiêng hóa triết lý Hy Lạp và ưu tư nhiều đối với chủ nghĩa vô thần thế kỷ 19. Song song với những điều đó là việc quan tâm tới chân lý đơn nhất như là đối tượng của đức tin, tới việc bênh vực tính toàn vẹn của kho tàng đức tin, tới ngữ cảnh Giáo Hội của Đức Tin và tới trách nhiệm của huấn quyền trong việc gìn giữ tính toàn bộ của đức tin chống lại sự xâm thực của thời gian.
Dĩ nhiên, vì là bản văn phần lớn do Đức Bênêđíctô XVI soạn thảo, nên Thông Điệp nhiều lần nói tới sự kình chống hiện đại giữa đức tin và lý trí. Đồng thời, Thông Điệp cũng có những đoạn tích cực tuyệt vời nói tới việc con người đi tìm Thiên Chúa và việc ánh sáng đức tin soi sáng cho khoa học.
Nói tới những người không có đức tin nhưng đi tìm Thiên Chúa, Thông Điệp thừa nhận rằng “người có tinh thần tôn giáo cố gắng thấy các dấu hiệu của Thiên Chúa, trong kinh nghiệm của cuộc sống hàng ngày, trong chu kỳ các mùa, trong tính mầu mỡ của trái đất và trong chuyển động của vũ trụ” (số 35). Thông Điệp còn nói thêm: “Bao lâu họ thành thực mở lòng mình ra đón nhận tình yêu và lên đường với bất cứ thứ ánh sáng nào họ tìm thấy, thì người tìm kiếm đã đang ở trên đường dẫn tới đức tin, dù họ không biết như vậy”.
Đàng khác, đức tin chiếu soi trọn sự sống, kể cả việc tìm kiếm của khoa học: “Đức tin khuyến khích nhà khoa học không ngừng cởi mở với thực tại trong mọi nét phong phú khôn lường của nó… Đức tin làm sống dậy ý thức phê phán bằng cách ngăn cản không cho nó tự hài lòng với các công thức của mình và giúp nó hiểu ra rằng thiên nhiên luôn lớn lao hơn. Bằng cách kích thích sự bỡ ngỡ trước mầu nhiệm sâu thẳm của sáng thế, đức tin mở rộng các chân trời của lý trí, dõi nhiều ánh sáng hơn cho một thế giới đang tự cơỉ mở đối với cuộc tìm hiểu của khoa học” (số 34). Dù trong thần học căn bản, những động lực thúc đẩy cho khoa học tiến bộ này có thể được giải thích như các biểu hiện của đức tin tiềm ẩn bên ngoài Chúa Kitô, nhưng khi nhìn bằng con mắt đức tin bởi những khoa học gia tín hữu như Teilhard de Chardin, chúng có cái chiều sâu Kitô (Christic depth). Chính cái chiều sâu lớn hơn của sự sống trong đức tin này là điều hai vị giáo hoàng tác giả muốn ta chú ý.
Cha Christiansen cho rằng khó nhận ra phần đóng góp riêng của Đức Phanxicô. Ngài nghĩ phần đóng góp này nằm ở chương 3 “tôi trao lại cho anh chị em điều chính tôi đã nhận được” đề cập tới việc thông truyền đức tin, và ở chương 4 “Thiên Chúa chuẩn bị cho họ một kinh thành”, đề cập tới vai trò đem lại sự sống của Đức Tin trong gia đình và trong xã hội. Nhưng nếu thế thì ta phải ngạc nhiên vì Giáo Hội học ở đây xem ra không phải là Giáo Hội học phục vụ của Đức Phanxicô (Giáo Hội ở ngoài phố, nơi tai nạn có thể xẩy tới) mà là Giáo Hội học bảo vệ đức tin khỏi sai lầm của Đức Bênêđíctô. Đáng lẽ ở đây, tín hữu nên nhận được một vài tầm nhìn thông sáng của Đức Phanxicô liên quan tới việc dấn thân của Giáo Hội vào một thế giới có khả năng gây chấn thương.
Tuy nhiên, các số 37-39 đã đề cập tới việc chia sẻ Đức Tin và nhấn mạnh tới bản chất cộng đồng và bản chất Giáo Hội của Đức Tin. Phần lớn chương 3 dành để nói về việc thông truyền đức tin qua bí tích. Chương 4 cho thấy nhấn mạnh mục vụ của Đức Phanxicô, nhất là tiết kết thúc (các số 56-57) nói về vai trò ủi an của Đức Tin trước đau khổ và chết chóc.
Cha Christiansen lưu ý sợi chỉ xuyên suốt ba thông điệp Deus caritas est, Caritas in veritate và Lumen fidei. Hai thông điệp kia là của Đức Bênêđíctô. Thông điệp cuối là của chung Đức Bênêđíctô và Đức Phanxicô. Nhưng cả ba cùng đều nhấn mạnh tới tình yêu. Thật vậy, chính tình yêu Thiên Chúa giúp ta tin. Trích lời Thánh Phaolô “tin bằng tâm hồn” (Rm 10:10), thông điệp cho rằng “đức tin biết vì đức tin nối kết với tình yêu, vì tình yêu tự nó đem soi sáng tới”. Chính đức tin mở mắt trí khôn. Thông điệp viết: “cái hiểu của đức tin được phát sinh khi ta nhận được tình yêu vô biên của Thiên Chúa, một tình yêu biến đổi ta từ bên trong và giúp ta nhìn sự vật bằng con mắt mới” (số 26). Điều thật đáng lưu ý là dù rất quan tâm tới nội dung chân lý của Đức Tin, Đức Bênêđíctô vẫn phải hướng tới tình yêu để đóng ấn cho luận điểm của ngài về đức tin, mang lại cho nó cái nét thuyết phục nhất. Vì nói cho cùng, Thiên Chúa “là chủ thể tự làm cho Người được biết đến và được nhận thức trong mối liên hệ liên bản vị” (số 36).
Không những thế, ngoài hình ảnh nhìn ra, một hình ảnh làm khởi điểm cho “Ánh Sáng Đức Tin”, Đức GH còn nói tới chiều kích nghe, thậm chí cả chiều kích rờ mó nữa của đức tin. Tin Mừng làm chứng cả ba chiều kích ấy: “điều chúng tôi được nghe, điều chúng tôi được nhìn bằng con mắt và rờ mó bằng tay chân, chính là lời ban sự sống” (1Ga 1:1; LF số 31). Thông điệp cho ta hay: tình yêu đích thực “kết hợp mọi yếu tố trong con người của ta và trở nên ánh sáng mới chỉ đường ta tiến tới cuộc sống vĩ đại và thỏa đáng” (số 27). Tình yêu sản sinh ra hiểu biết vì chỉ có nó mới ôm lấy trọn bản thân ta. Tình yêu ở tâm điểm đức tin là tình yêu kết hợp ta với Chúa Kitô.
Một sự hợp tác phi thường
Linh mục Robert P. Imbelli, thuộc tổng giáo phận New York, hiện dạy thần học tại Boston College, nhấn mạnh tới đặc điểm “bốn bàn tay” hình thành ra Lumen Fidei. Thực vậy, trước ngày ban hành thông điệp này, chính Đức Phanxicô tiết lộ đặc điểm này cho báo giới. Và một lần nữa, ở phần nhập đề của thông điệp, ngài viết rõ: Đức Bênêđíctô “gần như đã hoàn tất dự thảo đầu tiên của thông điệp về đức tin. Vì vậy, tôi rất cảm ơn ngài, và vì là anh em của ngài trong Chúa Kitô, tôi đã tiếp nối công trình tốt đẹp của ngài và thêm một số đóng góp của riêng tôi” (số 7).
Đây quả là một hợp tác phi thường khiến ta có thể gọi Lumen Fidei là chúc thư của Đức Bênêđíctô và Diễn Văn Đăng Quang của Đức Phanxicô.
Cha Imbelli cũng nhấn mạnh tới tình yêu như là trọng tâm của Lumen Fidei khi trích dẫn “Trong tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải nơi Chúa Giêsu, đức tin đã nhận thức được nền tảng mà mọi thực tại và cùng đích của chúng dựa vào” (số 15). Đức tin của Kitô Giáo phát sinh từ cuộc gặp gỡ đầy yêu thương với Chúa Giêsu Kitô, Đấng chịu đóng đinh và đã sống lại. Do đó, nó bao gồm trọn con người, cả hiểu biết, lẫn ý chí và xúc cảm.
Thành thử, trước khi được phát biểu thành lời, đức tin là một thực tại cảm nghiệm sâu sắc đặt con người vào con đường mới, giúp họ thấy thực tại dưới một ánh sáng mới, tức ánh sáng của Chúa Kitô, và mở cho họ nhiều chân trời và sứ mệnh mới. “Những ai tin đều được biến đổi bởi tình yêu mà họ vốn mở trái tim ra chào đón trong đức tin” (số 21). Họ được biến đổi qua việc Chúa Kitô cư ngụ trong họ.
Điểm cũng cần nhấn mạnh là khía cạnh cộng đồng của đức tin. Cái “tôi” của người tín hữu được lồng vào cơ thể Giáo Hội của Chúa Kitô: Câu “tôi tin” của cá nhân được định vị trong câu “chúng tôi tin” của cộng đồng. Thông điệp viết một cách súc tích như sau về khía cạnh này “Việc mở ra cái “chúng tôi’ đầy tính Giáo Hội này phản ảnh sự cởi mở của chính tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu không những chỉ là mối tương quan giữa Cha và Con, giữa “Con” và “Ngài”, mà còn, trong Chúa Thánh Thần nữa, nghỉa là “Chúng ta”, một hiệp thông các ngôi vị” (số 39).
Mặt khác, hiệp thông có tính Giáo Hội được cảm nghiệm và vui hưởng không có tính tự khép kín, mà đòi ta phải lãnh trách nhiệm đối với thiện ích chung. “Ánh sáng (đức tin) không chỉ soi sáng bên trong Giáo Hội, cũng không phải chỉ để xây dựng kinh thành vĩnh cửu đời sau; nó còn giúp ta xây dựng xã hội sao đó để xã hội cùng lên đường tiến tới một tương lai hy vọng” (số 51).
Bắt nguồn từ căn cội mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, đức tin không thể làm ngơ nỗi thống khổ của thế giới. Nó tìm cách đem đến cho ta một phục vụ đầy hy vọng và yêu thương, nhất là cho những người thiếu thốn và bị bỏ rơi hơn cả. “Đức tin không phải là ánh sáng làm tan bóng tối, mà là ngọn đèn dẫn lối ta đi trong đêm và đủ cho suốt hành trình” (số 57).
Lời mời thân ái đối với người tìm kiếm
Linh mục James Martin, S.J., chủ bút toàn quyền của America, thì cho rằng Lumen Fidei là lời mời tốt đẹp đối với cả người tin lẫn người không tin. Dù thông điệp này chính thức ngỏ lời với các giám mục, linh mục, tu sị và tín hữu giáo dân, nó cũng thực lòng muốn nói với bất cứ ai đang tìm kiếm Thiên Chúa.
Theo cha Martin, không có gì đáng gọi là “tin tức” trong Lumen Fidei, ngoại trừ sự liên kết chặt chẽ giữa đức tin và “công lý, luật pháp và hòa bình” là những điều vốn phản ảnh quan tâm sâu sắc của Đức Phanxicô đối với người nghèo. Thực vậy, có cả một đoạn minh nhiên nói tới các khuôn mặt vĩ đại như Thánh Phanxicô Assisi và Mẹ Têrêxa, những người được đức tin thúc đẩy để trực tiếp làm việc cho người nghèo.
Cha Martin cho rằng ta không nên đoán già đoán non phần nào của thông điệp do Đức Bênêđíctô viết phần nào do Đức Phanxicô viết. Đúng hơn phải đọc thông điệp trong tính toàn bộ của nó, coi nó như công trình của cả hai vị Giáo Hoàng.
Như trên đã nói, Cha Martin cho rằng có những đoạn dành cho các tín hữu Kitô suy niệm cách phong phú, nhưng không thiếu những đoạn có ích cho cả người đang tìm kiếm, người hoài nghi, người bất khả tri và thậm chí cả người vô thần nữa.
Thực vậy, thông điệp có chỗ viết “đức tin phát sinh từ một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa”. Nghĩa là, đức tin không phải chỉ là một diễn trình tri thức, hay câu trả lời cho các vấn nạn triết học, mà chủ yếu là một mối liên hệ, với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu, và với người khác. Thông điệp cho rằng ta có thể thấy được sự tiến bộ trong mối liên hệ này qua dòng lịch sử, trong câu truyện cứu độ, bắt đầu với Ápraham. Bởi thế, đối với những người tìm kiếm, tha thiết muốn biết đức tin là gì, thay vì một tranh luận triết học hay thần học, Lumen Fidei trình bày một con người: đó là Chúa Giêsu. Thông điệp bảo: đức tin là “tham dự vào cách nhìn của Người”. Ta tìm cách đi vào mối liên hệ với Người.
Nhưng điều trên không có nghĩa: trí hiểu không quan trọng. Đối với những người sợ rằng trở thành Kitô hữu có nghĩa phải vứt bỏ đầu óc đi, Lumen Fidei nhấn mạnh tới giá trị của con đường tri thức, và nhắc nhở ta nhớ tới kinh nghiệm của Thánh Augustinô. Gặp gỡ Thiên Chúa không khiến Thánh Augustinô phải “từ bỏ ánh sáng và việc nhìn” tức lý trí. Tuy nhiên, niềm khát khao chân lý của ta chỉ được thỏa mãn khi “ta thấy và yêu”.
Vì “tình yêu là cảm nghiệm về chân lý”. Do đó, đối với người vẫn đang tìm kiếm Thiên Chúa, thông điệp khuyến khích họ suy tư về chính cảm nghiệm yêu thương của họ, không phải như một xúc cảm phù du, mà như phương cách nếm thử đức tin và cảm nhận chân lý, cả hai sẽ dẫn tới đức tin. Nhờ suy tư về tình yêu mà Thiên Chúa tỏ cho ta thấy trong cuộc sống ta, như Dân Israel từng làm suốt trong lịch sử, dần dà ta sẽ nắm được đức tin. Dòng sau đây thiết nghĩ rất hay đối với nhiều người đang tìm kiếm: “Bao lâu họ chịu thành thực mở lòng mình ra đón chào tình yêu và lên đường với bất cứ ánh sáng nào họ tìm thấy, họ đã đang trên đường dẫn tới đức tin rồi, dù không biết”.
Chính vì vậy, đức tin là một hành trình. Lumen Fidei quả có nói tới “nẻo đường” và “con đường mà Đức Tin mở ra trước ta”. Nói cách khác, đừng sợ tiếp tục tìm kiếm. Thông điệp cho hay “Người tôn giáo là người đi đường, họ phải sẵn sàng để được hướng dẫn, để ra ngoài chính họ, và tìm thấy Thiên Chúa luôn gây ngạc nhiên”.
Ánh sáng soi đường ta đi
Linh mục Peter Folan, S.J., cha phó Nhà Thờ Chúa Ba Ngôi ở Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, đặc biệt lưu ý tới số 57 của Lumen Fidei là số cho rằng “đức tin không phải là ánh sáng xóa tan bóng tối mà là ngọn đèn dẫn lối ta đi trong đêm và đủ cho suốt hành trình”. Ta cũng có thể nói như thế về chính thông điệp. Vì thông điệp này quả là ánh sáng cho Giáo Hội, và do đó, cho cả nhân loại, không phải vì nó xóa bỏ mọi thách đố đối với niềm tin, mà vì nó cho thấy đức tin của Giáo Hội sẵn sàng đối mặt với các thách đố đó. Cách riêng, Lumen Fidei sẵn sàng giáp mặt với 3 thách đố sau đây:
Thứ nhất, đức tin là một kế hoạch chống đỡ(backup). Những người đặt ra thách đố này coi đức tin như một chất trét (caulk) để trám các lỗ hổng giữa cảm nghiệm và giải thích khoa học. Họ cho rằng thời gian và nghiên cứu sâu sắc cuối cùng sẽ cho thấy đức tin là điều không cần thiết, nếu không muốn nói là nguy hiểm. Phần mình, Lumen Fidei, một mặt, nhấn mạnh tới tầm quan trọng của nhận thức và chân lý, vì “không có các giá trị này, ta không thể đứng vững, ta không thể tiến tới” (số 24) nhưng mặt khác nhận ra “một mất trí nhớ vĩ đại trong thế giới hiện đại” (số 25). Vì theo thông điệp này, các vấn đề về chân lý và nhận thức, xét trong nền tảng, chính là các vấn nạn về ký ức, vì “chúng liên hệ tới điều gì đó có trước chúng ta” (số 25). Mồi cho ngọn lửa âm ỉ của ký ức cá nhân và ký ức Giáo Hội cháy lên qua cầu nguyện và bí tích sẽ kết hợp chúng ta, trở nên không những một tế bào liên kết các giây phút rời rạc của thực tại, mà là chất cốt của chính thực tại, chỉ đường tiến tới tương lai bằng cách đặt cơ sở vững chắc trong quá khứ.
Cho dù đức tin không phải là một kế hoạch hỗ trợ đi, thì thách đố thứ hai cũng cho rằng nó chỉ là một theo đuổi cá nhân. Thách đố này, một thách đố phát sinh từ phong trào “tâm linh chứ không tôn giáo” và “đức tin đòi người ta vâng lời tối mặt”, gặp được câu trả lời mạnh mẽ từ Lumen Fidei. Trong khi nhắc độc giả nhớ rằng “đức tin không phải là chuyện tư riêng, một ý niệm hoàn toàn cá nhân chủ nghĩa hay ý kiến bản thân”, thông điệp nối kết đời sống đức tin với việc nhìn và nghe để kết luận rằng đức tin “nhằm tìm cách phát biểu thành lời và được công bố” (số 22). Đức tin nhận biết do việc nhìn và nghe này khiến mắt và tai ta tập chú “vào cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô” (số 30), một cuộc gặp gỡ “được duy trì sống động trong chủ thể tưởng niệm duy nhất kia là Giáo Hội” (số 38). Như thế, Giáo Hội làm sắc cái nhìn, cái nghe và cái nhớ của cá nhân, tức đức tin của cá nhân, y hệt như cá nhân làm sắc những thứ ấy nơi Giáo Hội.
Cuối cùng, Lumen Fidei ngỏ lời với những ai cho rằng đức tin chỉ là vấn đề nội bộ của Giáo Hội. Ngược lại thì có, giống như Giáo Hội, đức tin “đặt chúng ta vào cuộc hành trình; nó làm khả hữu việc làm chứng và đối thoại với mọi người” (số 34). Mục đích của cuộc đối thoại này phải là sự nên một mà Chúa Giêsu từng cầu xin trong Tin Mừng Gioan 17, vì như lời Thánh Lêô Cả, “nếu đức tin không là một, thì nó không phải là đức tin” (số 47). Điều này kêu gọi nhiều hơn cả đại kết. Nó đòi sự hợp nhất của toàn thể nhân loại trong tình anh em, một tình anh em không dựa hoàn toàn vào bình đẳng, mà dựa vào “Cha chung làm nền tảng tối hậu” (số 54).
Ánh sáng đức tin, thứ ánh sáng làm tên và làm nội dung cho Lumen Fidei, không như “những tia sáng nhỏ nhoi chiếu sáng những khoảnh khắc mau qua chứ không có khả năng chiếu rọi đường đi” (số 3). Những tia sáng nhỏ nhoi này may ra chỉ giải quyết được một số thách đố trong nhất thời để rồi sau đó tàn lụi. Còn ánh sáng đức tin, như được trình bày trong Lumen Fidei, cho ta thấy cả con đường vượt qua các thách thức này và quá cả bên kia chúng nữa, một con đường mà Giáo Hội phải bước qua, không ngừng lữ thứ.
Sự hợp nhất của Đức Tin
Christiana Z. Peppard, một phụ tá giáo sư thần học, khoa học và đạo đức học tại Đại Học Fordham, New York, cho rằng dù những tham chiếu về Nietzche, Justin Tử Đạo, Dante và Dostoevsky có cho thấy văn phong của Đức Bênêđíctô XVI; và các chủ đề như tương quan, thiện ích chung, kinh tế và tạo dựng có sắc thái của Đức Phanxicô, nhưng ta không nên đọc Lumen Fidei trong não trạng đó. Vì thông điệp không phải là một văn kiện vụn vặt. Dù được viết bởi một ủy ban đi chăng nữa, nó vẫn có sự thống nhất của một tiếng nói có thẩm quyền.
Đồng nhất và đồng thanh (univocality) là các chủ đề quan trọng trong Lumen Fidei, một thông điệp cố gắng khẳng định rằng “ánh sáng đức tin là ánh sáng độc đáo, vì nó có khả năng chiếu soi mọi khía cạnh của đời người” (số 4). Hiểu rõ các thực tại hiện nay, thông điệp ưu tư đối với “cuộc khủng hoảng chân lý của thời ta” và “chủ nghĩa duy tương đối”, một chủ nghĩa hiện đang hết sức thách thức “câu hỏi về Thiên Chúa” (số 25). Nó nhấn mạnh sự quan trọng của tân phúc âm hóa; nó đặc biệt cho thấy khoa học và đức tin bổ túc cho nhau: “bằng cách kích thích sự bỡ ngỡ trước mầu nhiệm sâu thẳm của tạo dựng, đức tin mở rộng các chân trời của lý trí để nó dõi một ánh sáng lớn hơn trên thế giới vốn tự bộc lộ mình cho các tìm hiểu của khoa học” (số 34).
Nhưng thông điệp cũng khiến người ta tự hỏi: đồng thanh và đồng nhất nói về đức tin có nghĩa gì trong một thời điểm Giáo Hội hoàn vũ càng ngày càng ý thức được tính đa dạng trong nội bộ chính mình? Hai vấn đề sau đây đáng được xem sét thêm.
Thứ nhất, thông điệp coi sự thật của Giáo Hội như một cố gắng thẳng thắn và đồng thanh. Trong cách nhìn này, chân lý có tính huấn quyền; qua truyền thừa tông đồ, “huấn quyền bảo đảm sự tiếp xúc của ta với nguồn nguyên khởi và nhờ thế cung cấp cho ta sự chắc chắn có thể vươn tới lời của Chúa Kitô trong sự toàn vẹn của nó” (số 36). Cái nhìn này không hề là cái nhìn mới lạ. Nhưng nó vẫn đáng lưu ý trong ngữ cảnh những cuộc tranh luận liên tục về vai trò và thế giá của các thần học gia so với huấn quyền phẩm trật.
Thứ hai, phải hiểu sự hợp nhất Công Giáo ra sao? Dĩ nhiên, Lumen Fidei cho rằng phụng vụ, các bí tích, chứng tá Thánh Kinh, các kinh nguyện và tuyên xưng đức tin là những phương thế Giáo Hội dùng để duy trì và truyền bá chủ trương nền tảng cho rằng “lịch sử của Chúa Giêsu hoàn toàn cho thấy sự đáng tin của Thiên Chúa” (số 15). Những thứ ấy bền vững qua mọi không gian và thời gian và là những nguồn căn bản của việc hợp nhất trong Đạo Công Giáo.
Nhưng hình ảnh hợp nhất trong Giáo Hội hoàn vũ là hình ảnh nào? Đây là câu hỏi quan trọng và phức tạp. Giáo Hội có thể hợp nhất trong đức tin, nhưng nhất định Giáo Hội không độc dạng trong thực hành hay trong hiến pháp của mình. Như thế, làm thế nào lồng tính đa dạng trong cảm nghiệm nhân bản của Giáo Hội hoàn cầu và đa nguyên này vào các phát biểu đồng thanh của giáo huấn huấn quyền? Câu hỏi này xem ra không được Lumen Fidei bàn tới, nó thường chỉ nhấn mạnh tới tính hợp nhất của Giáo Hội mà làm ngơ tính đa phức. Điều này là một đáng tiếc, vì hợp nhất không thể giản lược thành độc dạng (uniformity).
Quen biết
Linh mục Drew Christiansen, ngày 8 tháng 7, còn nhận xét thêm về Lumen Fidei mà cho rằng đức tin nhiên hậu đặt cơ sở trên cái biết của tình yêu Thiên Chúa trong đức Kitô, một cái biết mà người Việt Nam chúng ta gọi là quen biết hay cái biết có tính bản vị. Quả vậy, đức tin thuộc lãnh vực nhận thức liên bản vị bởi vì Thiên Chúa là Đấng có bản vị.
Đối với thế hệ học hỏi thần học ở thập niên 1960-1970, chủ trương về cái biết này của đức tin là điều căn bản. Sau khi nắm vững nền nhận thức học về phổ quát thể (universals) tức vấn đề làm thế nào các ý niệm nhân bản nắm bắt được thực tại, các sinh viên thường đọc những cuốn sách như cuốn Personal Faith (Herder, 1965) của Carlos Cirne-Lima, một triết gia Ba Tây. Ông chủ trương rằng kinh nghiệm gần gũi nhất với nhận thức đức tin nơi con người là nhận thức liên bản vị của một người được yêu và nhận thức đức tin về Thiên Chúa là một nhận thức bản vị.
Cùng lúc đó, Công Đồng Vatican II cũng đưa ra một chủ trương tương tự trong Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải, Dei Verbum, mà cho rằng đức tin là đức tin vào con người Chúa Kitô, Đấng ta yêu mến. Công Đồng tuyên bố rằng “Bởi thế, Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời thành xác phàm, đã được phái tới với ‘con người như một con người’. Người ‘nói lời Thiên Chúa’ (Ga 3:34), và hoàn tất công trình cứu rỗi mà Cha Người đã trao cho Người thực hiện (xem Ga 5:36; 17:4). Thấy Chúa Giêsu là thấy Cha Người (Ga 14:9)” (DV số 4). Việc trình bày có tính qui Kitô về đức tin này của Vatican II đã được nhiều thần học gia phục vụ tại Công Đồng trong tư cách chuyên viên như Henri de Lubac chủ trương trước đó. Và đàng sau họ là công trình của nhà thần học Dòng Tên Pháp đầu thế kỷ 20 tức Pierre Rousselot (1878-1915).
Dù trong lúc “dầu sôi lửa bỏng” của cuộc khủng hoảng duy hiện đại (modernist), Rousselot cũng mạnh bạo trình bày cái nhìn thông sáng của ông về chiều kích tình yêu trong đức tin khiến ông được coi là lý thuyết gia về tình yêu.
Ta biết với triết học Kinh Viện, dù Bonitas, veritas et pulchritudo convertuntur (Thiện, chân, mỹ có thể trao hoán lẫn nhau), nhưng vì khuynh hướng nghiêng nhiều về tính hữu lý của Đức Tin và vì cơ cấu Đạo Công Giáo thời ấy vốn tự hào về tư cách tôn giáo tín điều của mình, nên phần đông truyền thống Công Giáo vẫn coi trọng chân lý hơn tình yêu. Khuynh hướng này kéo dài tới tận Vatican I. Rousselot trái lại cho rằng trong cái hiểu có chiều kích tình yêu, và trong tình yêu có chiều kích chân lý. Các ý niệm của ta sở dĩ truyền đạt được chân lý vì ta vốn tiếp xúc được với những điều có thật. Nói cách khác, tình yêu hướng dẫn trí hiểu, vì tình yêu vốn đã nắm được thực tại trước đó rồi.
Trong bài “Con Mắt Đức Tin” đăng trên Recherches des Sciences Religieuses (1910), Rousselot cho rằng các khẳng định cá thể của đức tin đều bắt nguồn từ sự hợp nhất chân thực của ta trước đó với Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Ta khẳng định các mệnh đề tín lý là thật vì ta đã vốn có mối liên hệ với Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Sự hợp nhất của các chân lý chính là Chúa Kitô. --
|