Mình Máu Thánh Chúa Giêsu
Lễ nào không phải là lễ
Mình Máu Thánh Chúa Giêsu hay sao, mà phụng vụ còn phải
đặt ra ngày lễ hôm nay? Đó là vấn đề
đã được tranh luận sôi nổi ở cuối
thế kỷ XIII và đầu thế kỷ XIV trước
khi lễ kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được
phổ biến ở mọi nơi. Trước đó, tức
là trong hơn 10 thế kỷ đầu của Kitô giáo, Hội
Thánh vẫn cử hành thánh lễ tạ ơn, nhưng không
nghĩ tới việc đặt ra một ngày lễ đặc
biệt để tôn thờ Chúa Giêsu ngự nơi Thánh Thể.
Hội Thánh coi Thánh Thể là lương thực hàng ngày nên
không để ý quan sát, mà chỉ quan tâm lãnh nhận. Sang
đến cuối thế kỷ XII, vì có người đặt
vấn đề sự hiện diện của Chúa nơi
Thánh Thể, Hội Thánh mới thấy việc chiêm ngưỡng
và suy nghĩ về bí tích này là cần thiết. Lễ Mình
Máu Thánh Chúa Giêsu được đặt ra để nói
lên niềm tin vào việc Chúa ngự nơi Thánh Thể. Và
niềm tin này đòi hỏi việc tôn thờ xứng
đáng, biểu hiện trong thái độ chầu Mình Thánh
và kiệu Mình Thánh. Đó còn là những việc mà chúng ta muốn
làm hôm nay cùng với việc dự lễ và rước lễ
để nói lên lòng tin yêu của chúng ta đối với
bí tích Thánh Thể.
Nhưng cho dù chính đáng,
những cách thức biểu lộ niềm tin này vẫn
không cần thiết bằng việc kết hợp với
Chúa Giêsu Thánh Thể mà Hội Thánh vẫn quan tâm ngay từ
đầu. Và những bài đọc Kinh Thánh hôm nay muốn
giúp chúng ta làm công việc này.
1. Bánh rượu trong tay
Melkisedek.
Bài sách Khởi Nguyên
đưa chúng ta về một thời đại xa xưa,
thời của tổ phụ Abraham. Hôm ấy vị tổ
phụ đi giao chiến để cứu anh em mình là gia
đình ông Lót. Abraham đã toàn thắng. Trên đường
về có vua ở Sôđôma ra đón để chúc mừng
và tỏ tình thân thiện. Lại có vua ở Salem
là Melkisedek cũng ra gặp gỡ.
Tác giả sách Khởi
Nguyên chỉ dùng có ba câu để thuật lại câu truyện.
Nhưng đây là ba câu đã có ảnh hưởng lớn
trong truyền thống của Kinh Thánh. Hết mọi từ
ngữ đều có ý nghĩa. Melkisedek, nếu chiết tự
thì có nghĩa là Vua Công Chính. Và Salem không những là tên
được đồng hóa với Giêrusalem mà còn gợi
lên tư tưởng Hòa Bình. Chắc chắn câu truyện kể
ở đây đã thành danh tiếng vì nó đã xảy ra tại
Giêrusalem, ở ngay thời của tổ phụ dân Chúa.
Người ta truyền tụng nó để đề cao
Giêrusalem, và để nói lên rằng: thủ đô của
dân Chúa đã được vị tổ phụ của dân
tộc đặt chân đến.
Hơn nữa, ở
đây, nơi đô thị ‘Hòa Bình’ này, vị tổ phụ
đã gặp một nhân vật ‘mầu nhiệm’. Ông không
phải chỉ là vua, mà còn mang danh hiệu là ‘ông vua công
chính’. Về sau người ta đã cố gắng tìm hiểu
lai lịch của ông, nhưng mọi nỗ lực chỉ
đi đến một kết luận: ông như không cha
không mẹ; ông đột nhiên xuất hiện rồi lại
biến mất tăm hơi. Ông là con người mầu
nhiệm, y như thái độ của ông trong câu truyện
này.
Ông ra đón Abraham,
nhưng khác hẳn với vua Sôđôma đã ra gặp vị
tổ phụ. Vì mặc dù là Vua Salem, ông đã không nghênh
đón ‘người đại thắng khải hoàn’ theo
cung cách triều đình, nhưng với tác phong là tư tế;
vì theo tục lệ đông phương thời ấy,
hoàng đế cũng là tư tế. Ông mang bánh và rượu
ra. Ông làm một cử chỉ tôn giáo. Ông chúc lành cho Abraham và
ông ca tụng Chúa Tối Cao. Ông dùng chính vị Chúa của
mình là Đấng Tối Cao dựng nên trời đất
để chúc phúc. Ông làm cho Abraham như phải cúi đầu
và dâng cho ông thập phân về hết mọi sự.
Có lẽ hàng tư tế
Do Thái đã thích câu truyện này và muốn lợi dụng tối
đa. Họ nhắc đi nhắc lại để cho con
cái Israel phải
quý việc nộp thập phân huê lợi cho hàng tư tế,
vì chính vị tổ phụ đã làm như thế!
Nhưng phần lớn
truyền thống Cựu Ước lại chú ý đến
vai trò tư tế của Melkisedek và vị Chúa Tối Cao mà
ông tôn thờ. Ngài là Đấng dựng nên trời đất,
nên Ngài cũng là chính Giavê, Chúa của dân Israel.
Ngài đã phó địch thù trong tay Abraham, và như vậy
Ngài là Chúa toàn năng của tất cả mọi người,
cả khi người ta không biết Ngài. Tất cả những
tư cách này khiến con cái Israel
–cũng như tổ phụ Abraham thấy ngay Ngài cũng
là Thiên Chúa của họ và Giêrusalem thật là nơi thánh
địa, vì từ đầu vẫn là đô thị của
Thiên Chúa.
Điều này cũng nói
lên quan niệm của Cựu Ước không coi tôn giáo tự
nhiên, tôn thờ Đấng dựng nên trời đất,
như tôn giáo của các dân ngoại. Ngoại giáo là tà giáo,
chứ tôn giáo tự nhiên thờ Đấng Tối Cao là
chính giáo ở thời chưa được mạc khải,
nên vẫn đáng trọng.
Tuy nhiên Cựu Ước
chưa chú trọng đến bánh rượu ở trên tay
Melkisêdek như phụng vụ muốn cho chúng ta phải làm
trong ngày hôm nay. Những của lễ kia, nằm trên tay vị
tư tế mầu nhiệm của tôn giáo tôn thờ Đấng
Tối Cao là hình ảnh báo trước bánh rượu sẽ
được đôi tay của vị tư tế đạo
mới dâng lên sau này. Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời
đất, ngay từ buổi đầu của lịch sử
dân Chúa, đã tỏ ra muốn dùng bánh rượu làm lễ
vật. Những của lễ này nằm trên tay Melkisêdek nói
lên lòng tôn thờ tự nhiên, chuẩn bị cho việc tôn
thờ hoàn chỉnh sau này.
Do đó ngày nay trong Thánh lễ,
chúng ta dâng lên Chúa bánh rượu ‘là hoa mầu ruộng
đất và lao công vất vả của con người’
để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh lễ của
chúng ta kiện toàn lễ dâng của Melkisêdek. Bánh rượu
trên tay vị tư tế này đang chờ được
vị thượng tế đạo mới thánh hóa. Và
như vậy, Thánh lễ của chúng ta đã bắt nguồn
từ xa xưa và kiện toàn mọi lễ dâng từ thời
Abel qua Melkisêdek và cho tới nay. Chúng ta không dâng lễ ở
ngoài lịch sử, nhưng dâng tất cả lịch sử
làm của lễ khi nhận lấy bánh rượu đã
được dâng từ thời Melkisêdek để trở
nên bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho chúng ta.
Và Melkisêdek là hình ảnh
báo trước về Chúa Kitô và các tư tế của
Người, trong đó có cả chúng ta. Do đó, mỗi khi
dâng lễ, chúng ta lại nhớ tới vị tư tế
xa xưa này. Mỗi khi cầm bánh rượu, chúng ta
như nắm lấy tất cả thiên nhiên và lịch sử.
Chúng ta muốn tất cả trở thành lương thực
nuôi dưỡng chúng ta sau khi đã biến đổi nên
Mình và Máu Chúa Giêsu. Chính Người với lễ hy sinh của
Người nối kết và hoàn chỉnh mọi lễ
dâng của các thế hệ xa xưa cũng như của
những thế hệ sau này. Chúng ta hãy nhìn Người
trong hành vi tế lễ.
2. Bánh rượu trong tay
Chúa Giêsu.
Chắc chắn, khi còn ở
trần gian và sống với các môn đệ, Đức
Giêsu đã nhiều lần cầm lấy bánh rượu.
Nhưng có thể nói, môn đệ đã quên hết mọi
lần khác để chỉ nhớ lại một lần,
lần xảy ra trong bữa ăn tối sau hết trước
khi Ngài ra đi chịu chết.
Lần ấy Người
đã cầm lấy bánh rượu một cách khác thường,
không thể quên được, đến nỗi mỗi
khi nhắc lại đã có lần nào Người cầm
bánh rượu, là môn đệ lại nhớ đến lần
này và lấy cử chỉ, thái độ của Người
trong lần này để mô tả mọi lần khác. Chính
vì vậy mà hôm nay chúng ta xem bài thư Phaolô trước nói
đến lần Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu
ở bàn Tiệc ly. Rồi chúng ta mới nói đến bài
Tin Mừng kể việc Đức Giêsu cầm lấy
bánh để chia trong một dịp khác.
Việc này xảy ra
trước bữa Tiệc ly; nhưng như đã nói, môn
đệ Chúa đã kể lại việc này theo ‘khuôn mẫu’
của việc Người cầm lấy bánh rượu ở
trong bữa ăn cuối cùng. Thành ra, chính bài thư Phaolô sẽ
giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng, mặc dù câu truyện kể
ở đây đã xảy ra trước, nhưng đã
được viết lại sau và theo kinh nghiệm bàn Tiệc
ly.
Thánh Phaolô viết đoạn
thư này vào khoảng năm 57, căn cứ vào truyền
thống chân thật, đây là điều người
đã nhận được nơi Chúa, tức là bắt
nguồn từ Chúa để truyền lại cho tín hữu.
Do đó, đây là sự kiện chân thật. Chỉ có uy
tín chân thật này mới có thể làm cho giáo dân Côrintô suy
nghĩ và sửa mình.
Họ vẫn hội họp
nhau để cử hành ‘bữa tiệc của Chúa’.
Nhưng Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là ‘của Chúa’ cả.
Gần giống các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại
rồi. Bởi vì ai đến ăn, cũng mang phần
riêng của nhà mình tới. Người có nhiều thì ngồi
chung với nhau ăn nhậu một cách tham lam và khinh bỉ
những người khác. Những người này nghèo
hơn, mang theo phần ít, ngồi ăn một cách buồn
bã. Người ta chỉ mượn ‘Nhà của Chúa’ để
mang đồ ăn của ‘nhà mình’ tới. Người ta
lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống
chứ không cử hành ‘bữa ăn tối’ của Chúa nữa.
Thế nên để sửa
dạy giáo dân của Ngài, Phaolô nhắc lại thế nào là
‘bữa ăn’ đích thực của Chúa. Người làm
cho họ nhớ giáo huấn chân truyền. Và sự thật
ấy thế này: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm
lấy bánh và tạ ơn xong, Người đã bẻ ra
và nói: “Này là Mình Ta… vì các ngươi…”. Cũng vậy về
Chén, sau khi dùng bữa tối xong, Ngài nói: “Chén này là Giao Ước
Mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi
uống mà nhớ đến Ta”.
Chỉ trong mấy câu vắn
tắt, Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật.
Người nói rõ việc ấy xảy ra trong đêm Đức
Giêsu bị nộp. Thế nên việc ban bánh rượu này
cho môn đệ gắn liền với cuộc khổ nạn
của Người. Và ‘Bữa Ăn Của Chúa’ luôn luôn
mang sắc thái của bữa Tiệc ly.
Đó cũng là bữa
ăn Vượt Qua của người Do Thái, nhắc lại
việc Chúa cứu dân ra khỏi Ai Cập và tin tưởng
cầu xin cùng chờ đợi Chúa còn tiếp tục giải
cứu nữa trong tương lai cho đến khi có giao
ước mới và vĩnh cửu như lời các ngôn sứ
của Chúa từng loan báo. Và trong bữa ăn này, việc
giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là
việc cốt yếu. Thế mà khi chia bánh rượu cho
môn đệ, Đức Giêsu lại tuyên bố: đây là
Mình Ngài bị nộp và đây là chén Máu Ngài sẽ đổ
ra. Người còn gọi đó là chén giao ước mới.
Do đó, rõ ràng Người đã tự coi, tự hiến
mình nên Chiên Vượt Qua để mang đến ơn cứu
độ mà các ngôn sứ từng loan báo.
Các môn đệ không lầm.
Họ thấy rõ với các cử chỉ của Chúa Giêsu
đã khai trương thời đại mới. Người
đã thay thế bữa ăn Vượt qua của người
Do Thái bằng bữa ăn của Người hôm nay. Có thể
họ chưa hiểu rõ những lời về Mình và Máu, vì
phải đợi đến ngày hôm sau khi thấy Mình Ngài
bị nộp và Máu Ngài chảy ra họ mới biết hết
ý nghĩa. Nhưng họ đã cảm thấy chắc chắn
Chúa Giêsu muốn dùng các cử chỉ của Người
hôm nay để ký kết giao ước mới, chấm dứt
đạo cũ và nghi lễ cũ. Từ nay bước
sang thời đại cứu độ và nếp sống
mới. Và nghi lễ mới cũng đã được
thiết lập, vì Đức Giêsu đã bảo: ‘Phải
làm sự này mà nhớ đến Người’. Tức là mỗi
khi nhớ đến Ngài, nhớ đến để hiệp
thông với Ngài trong hành vi cứu độ để
được Giao Ước mới, phải làm việc
Ngài vừa làm, tức là phải cầm lấy bánh rượu
mà làm như Ngài.
Thế mà giáo dân Côrintô
đâu có làm như thế! Thánh Phaolô phải bảo họ
‘mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén ấy, anh em
loan báo sự chết của Chúa… anh em làm bất xứng,
thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa.
Những lời này tuyên bố
rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể.
Bánh rượu đã trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Nếu ngày
lễ hôm nay có ý nói lên niềm tin Chúa hiện diện
nơi Bánh Thánh, Rượu Thánh, thì những lời thánh
Phaolô vừa nói đã đạt yêu cầu. Nhưng mục
đích của thánh Phaolô không phải chỉ muốn nói
đến sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể;
Người muốn rằng người ta phải hiệp
thông với Chúa, có tâm tình của Chúa để cử hành tiệc
Bánh Rượu.
Đây là bữa ăn
Vượt qua. Người ta phải ôn lại và ôm lấy
tất cả lịch sử từ trước cho đến
nay với tâm tình tạ ơn, nhưng cũng với ‘ý thức
xót xa vì bao nhiêu khiếm khuyết để ước mong
được cứu độ nhờ giao ước mới.
Người ta sẽ cầm lấy bánh và chén rượu.
Và lúc ấy theo lời Chúa Giêsu đã nói, người ta nhớ
đến Người, nhớ đến cuộc Tử Nạn
hồng phúc của Người. Người ta tham dự,
thông phần lễ hy sinh Người đã dâng để
được vượt qua, sống lại, hướng
về ngày vinh quang Người trở lại.
Bánh rượu trên tay
Chúa, vì thế, không còn phải chỉ là bánh rượu
như trên tay Melkisêdek nữa. Nếu trên tay vị tư tế
mầu nhiệm này, bánh rượu tượng trưng cho
thiên nhiên, thì trên tay Chúa Giêsu, bánh rượu mang thêm ý
nghĩa lịch sử và giao ước cũ. Đó không phải
chỉ là hoa mầu ruộng đất, nhưng còn là lao
công vất vả của con người. Thiên nhiên và con
người đều phải trở nên tạo vật mới,
nhờ mầu nhiệm Chúa Giêsu nơi bí tích bánh rượu
mà chúng ta còn tiếp tục dâng trên bàn thờ.
3. Bánh rượu trên tay
chúng ta.
Dĩ nhiên khi dâng bánh
rượu, chúng ta phải có những tâm tình như trên vừa
nói; vì lời thánh Phaolô nói với tín hữu ở Côrintô
cũng là để cho chúng ta. Nhưng mục đích cuối
cùng của Phaolô không phải chỉ muốn nhắc cho
chúng ta nhớ ‘Bữa Ăn Của Chúa’, mà còn khuyên chúng ta
vì tính chất của bữa ăn như vậy, nên phải
cử hành tiệc Thánh Thể mà gia tăng bác ái. Bữa
ăn của Chúa phải là bữa ăn huynh đệ.
Ở đây chúng ta hãy nhớ
bài Tin Mừng Luca. Chúng ta đã nói cử chỉ cầm bánh
rượu của Đức Giêsu nơi bàn Tiệc ly
đặc sắc quá khiến mỗi khi nhắc lại những
lần khác mà Đức Giêsu cầm lấy bánh rượu,
các môn đệ lại nhớ đến các cử chỉ
của Người ở bàn Tiệc ly và dùng chúng làm khuôn mẫu
để diễn tả. Điều này rõ ràng trong bài Tin Mừng
hôm nay. Thánh Luca kể hôm ấy Chúa muốn thết đãi
những người đi theo Chúa vào nơi hiu quạnh.
Người cho họ ngả mình xuống thành từng cỗ,
mỗi cỗ độ năm mươi… Rồi Người
cầm lấy bánh và hai con cá. Người ngẩng mặt
lên trời và chúc tụng trên bánh và cá, đoạn bẻ ra
và ban cho môn đệ để họ thết đãi dân
chúng.
Chúng ta bảo bữa
ăn này báo trước bàn Tiệc ly và nhất là bàn tiệc
Thánh Thể trong Hội Thánh; hay chúng ta phải nói các bữa
ăn Thánh Thể và bàn Tiệc ly đã cung cấp cho thánh
Luca mọi yếu tố để thuật lại một
câu truyện xảy ra trước? Dĩ nhiên câu truyện
này cũng có ý báo trước những việc xảy ra
sau… nhưng chính những sự kiện xảy ra sau đã
đem ý nghĩa đến cho câu truyện xảy ra trước
và cung cấp cho nó những tài liệu để diễn tả.
Chúng ta không cần nói thêm
điều ấy nữa. Nhưng vì thánh Luca đã nhìn vào
bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh để thuật
câu truyện đã xảy ra nơi sa mạc, thì chúng ta hãy
xem ngoài các yếu tố báo trước bàn Tiệc ly và tiệc
Thánh Thể, thánh Luca còn muốn chú trọng đến
điểm nào nữa? Dường như tác giả đã
chú ý đến vai trò của các Tông Đồ. Lúc đầu
họ muốn giải tán dân vì thấy bất lực cung cấp
lương thực cho dân. Nhưng được Chúa gợi
ý cho dân ăn, họ nhiệt tình muốn đóng góp tất
cả và sẵn sàng làm thêm. Chúa bảo họ tổ chức
cho dân ngả mình xuống thành từng cỗ. Ngài trao bánh cá
cho họ phân phát… cuối cùng còn thu được 12 giỏ
mảnh vụn, đúng số 12 Tông Đồ.
Những điều ấy
há không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể,
Chúa muốn chúng ta phải biết nghĩ đến nhu cầu
của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ
giúp. Mình Máu Người còn trao cho chúng ta để chia sẻ,
huống nữa là của ăn vật chất và tài
năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi
người. Chúng ta không phải chia sẻ những của
ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy
cuối cùng còn thu lại được 12 giỏ vụn?
Chắc chắn Hội
Thánh ban đầu đã hiểu rằng bàn ăn của
Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử
hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ
chức việc chia sẻ nâng đỡ vật chất.
Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên thánh Phaolô
đã phải nhắc lại. Lời thánh Phaolô hôm nay
cũng chất vấn chúng ta: chúng ta sốt sắng tôn thờ
Thánh Thể, nhưng có biết chia sẻ với nhau một
cách thực tế không, để không một ai phải thiếu
thốn quá đang khi những người khác thì no đầy?
Thế nên hôm nay chúng ta phải
suy nghĩ về cả ba bài đọc, để khi long
trọng tôn thờ Chúa trong Thánh Thể, chúng ta ý thức
thêm về nhiệm vụ bác ái, để mỗi lần cử
hành bàn tiệc của Chúa chúng ta lại nghĩ đến
bàn ăn của anh em. Nơi bàn tiệc thánh được
Chúa nuôi thì sự sống mới chúng ta nhận được
phải đưa chúng ta đến với anh em và chia sẻ
số phận với anh em để khi trở lại dâng
lễ, chúng ta có bánh rượu là hoa mầu ruộng đất
và lao công của con người dâng lên để trở
thành bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho tất cả
chúng ta.
|