Lễ Mình Máu Thánh Chúa -
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu đến
có phải để lo chuyện ăn uống
cho dân chúng không? Tại sao Ngài lại làm chuyện
ấy? Động lực nào thúc đẩy
Ngài làm chuyện ấy?
2. Nơi Đức Giêsu,
tình yêu của Ngài đối với dân chúng hay bản tính
Thiên Chúa của Ngài làm nên phép lạ?
3. Nơi bí tích Thánh Thể,
chúng ta học được bài học gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu quan tâm
đến nhu cầu cụ thể của dân chúng
Ta thấy hoạt động
của Đức Giêsu được phối hợp giữa
việc rao giảng Tin Mừng và việc thỏa mãn những
nhu cầu cụ thể của dân chúng: “Đức Giêsu tiếp
đón dân chúng, Ngài nói với họ về Nước Thiên
Chúa, và chữa lành những ai cần được chữa”.
Điều mà Ngài rao giảng không phải là một
cái gì xa vời đối với dân chúng, mà là một cái gì
thiết thực, phù hợp với những khát vọng của
họ. Đó là Tin Mừng về Nước Thiên Chúa,
một tin vui về việc họ được giải
phóng, được thoát khổ và hạnh phúc, là điều
mà họ hằng mong ước. Đó là thứ Tin Mừng
“cho kẻ nghèo hèn”, Tin Mừng giải phóng “cho kẻ bị
giam cầm được tha, cho người mù được
sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự
do, v. v…” (Mt 4, 18).
Việc rao
giảng ấy luôn luôn đi kèm với nỗi quan tâm lo lắng
của Ngài đến những nhu cầu cụ thể của
dân chúng. Nhờ sự quan tâm và những
hành động cụ thể ấy, dân chúng cảm thấy
được Ngài yêu thương, chăm nom săn sóc.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy tình yêu nhân bản của
Ngài:
Thấy trời
đã tối, các môn đệ đề nghị Đức
Giêsu giải tán để họ tìm chỗ trọ và kiếm
thức ăn. Nhưng Ngài bảo các ông: “Anh em hãy cho họ
ăn”. Thật là một quan tâm đầy
tình người. Và sau đó Ngài đã làm
một phép lạ cả thể.
2. Tình yêu có thể làm nên
những phép lạ
Chúng ta đừng
nghĩ rằng Ngài làm như vậy vì Ngài có khả năng
làm phép lạ. Còn chúng ta, không làm phép lạ
được, nên có gặp trường hợp
tương tự, ta sẽ không dám làm như Đức Giêsu,
là quan tâm đến nhu cầu cụ thể ấy của
dân chúng. Đôi khi chúng ta phải nghĩ ngược lại,
chính vì Ngài yêu thương, quan tâm thật sự đến
nhu cầu của người khác và quyết tâm thỏa mãn
những nhu cầu ấy với bất cứ giá nào, nên
Ngài mới làm nên những phép lạ. Chúng ta
không làm được những phép lạ, vì chúng ta không thật
sự yêu thương và quyết tâm giải quyết những
nhu cầu của anh em chúng ta. Nguyễn bá Học có
nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi,
mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Trong bối cảnh
này, câu ấy có nghĩa: Đừng sợ rằng ta không
thể làm được điều gì giúp anh em, mà hãy sợ
rằng ta không đủ tình thương, không dám hy sinh
vượt khó, không dám chấp nhận gian khổ để
thỏa mãn những gì cần thiết cho anh em mình.
Tình
thương thật sự có thể làm nên những phép lạ.
Nhiều trường hợp trong lịch sử
chứng minh điều ấy. Nếu
ta thật sự yêu thương, quan tâm và nhất quyết
giúp đỡ anh em mình khi họ cần, chắc chắn ta
vẫn luôn luôn làm được một cái gì đó ích lợi
cho họ. Nếu không đủ tình
thương để làm nên phép lạ, thì hãy cố gắng
làm tối đa trong khả năng của mình. Nếu
không đủ tình thương để cố gắng tối
đa, thì chí ít cũng nên làm những gì tối thiểu: có
còn hơn không! Nếu ta hoàn toàn thờ ơ
không làm gì cả trước nhu cầu thực tế của
anh em, thì tình yêu của ta có hơn gì những người
mà ta cho là phường tội lỗi? Trong họ, biết
bao người đã tỏ ra có nhiều tình thương
hơn ta (xem dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Lc 10,29-37).
3. Đừng chỉ quan
tâm đến nhu cầu thiêng liêng của người khác,
mà không quan tâm đến nhu cầu cụ thể và thiết
thực của họ
Mục đích chính của
Đức Giêsu khi đến trần gian là để rao giảng
Nước Trời, chứ không phải là để cứu
đói, chữa bệnh, trừ quỷ, hay nói chung là cứu khổ về phần xác. Nhưng Ngài đã quan tâm rất nhiều tới những
việc này. Thánh Phê-rô đã nói lên điều ấy:
“Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới
đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm
chế” (Cv 10,38).
Rất nhiều Kitô hữu
lo lắng đến những nhu cầu thiêng liêng của
người khác: lo cho người ta biết Chúa, biết sống
đạo đức, ăn ngay ở
lành, làm lành lánh dữ, biết chăm sóc đến đời
sống nội tâm, v.v… Điều ấy rất
quí rất tốt, và cũng hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, trong số những Kitô hữu nhiệt thành ấy,
có khá nhiều Kitô hữu chỉ quan tâm lo cho tha nhân những
việc thiêng liêng ấy mà thôi, không hề nghĩ đến
những nhu cầu thiết thực, cụ thể trước
mắt và rất cấp bách của những người gần
gũi chung quanh họ. Chính
vì thế, những người được họ quan
tâm lo những việc thiêng liêng, không cảm nhận
được tình thương của họ một cách cụ
thể. Điều ấy làm cho những
cố gắng tốt đẹp của họ về mặt
thiêng liêng bớt hữu hiệu.
Thiết tưởng một
người được đức ái đích thực
thúc đẩy, sẽ không phục vụ tha nhân theo kiểu
“công chức”, nghĩa là chỉ phục vụ một số
đối tượng nào đó, trong một khía cạnh
nào đó, trong một số giờ nào đó mà mình
được chỉ định phục vụ. Vì thế,
họ không quan tâm phục vụ những đối tượng
khác, trong những khía cạnh khác, vào những giờ khác,
cho dù có những người cần được họ
chăm sóc, phục vụ, nhưng lại vượt ngoài
những hạn định ấy. Người có tình yêu
đích thực vẫn có thể chọn một loại
đối tượng để phục vụ, trong một
khía cạnh nào đó mà mình chuyên môn, v.v… Tuy
nhiên, trong những trường hợp cần thiết mà
đức bác ái đòi hỏi, người ấy vẫn
có thể phục vụ những đối tượng
khác, trong những khía cạnh khác, vào bất kỳ giờ
giấc nào. Một người có tình yêu đích thực,
có đức ái đích thực, không tự giới hạn
lòng yêu thương, sự phục vụ của mình, nhất
là trong những trường hợp đặc biệt cần
đến lòng yêu thương và sự phục vụ của
mình. Một người chuyên phục vụ
tha nhan về mặt tâm linh, vẫn nên quan tâm đến những
nhu cầu cụ thể của họ.
4. Hãy noi gương Thánh
Thể
Nói tới
Thánh Thể, chúng ta thường nghĩ tới việc phải
làm sao để nhận được từ Thánh Thể
những ơn cần thiết cho mình. Nhưng
thiết tưởng chúng ta không nên bỏ qua một bài học
tuyệt vời và rất quan trọng của Thánh Thể
là sự quên mình và tính vị tha. Không có gì tỏ ra quên
mình và vị tha cho bằng trở nên của ăn
cho người khác, hay sẵn sàng để cho người
khác “ăn” mình. Thật vậy, đồ ăn
hiện hữu vì người ăn nó, chứ không hiện
hữu một chút xíu nào vì bản thân mình cả. Tất cả
mọi sự, để trở thành đồ ăn thì đều phải chết đi mới
có thể nuôi sống người ăn mình. Bản chất
của đồ ăn chính là chết
đi để nhờ đó người khác được
sống, bị tiêu diệt để nhờ đó người
khác tồn tại. Thông thường, chúng ta
có khuynh hướng bắt người khác phải vì mình,
biến họ thành phương tiện hay công cụ phục
vụ cho mình. Biến mình thành đồ ăn thì hoàn toàn đi ngược lại
khuynh hướng thông thường ấy: sẵn sàng hiện
hữu vì người khác, sẵn sàng chấp nhận làm
phương tiện hay công cụ vì hạnh phúc đời
này hay đời sau của những người mình yêu
thương. Danh ngôn Pháp có câu: “Aimer, c’est permettre d’abuser” (yêu
là cho phép người mình yêu lợi dụng mình).
Cả cuộc đời
Đức Giêsu là một thứ đồ ăn: Ngài hiện
hữu không phải vì bản thân Ngài, mà hoàn toàn vì Thiên Chúa
và vì con người. Ngài đã chết để con người
được sống, đã tự hủy để con
người được tồn tại, đã đau khổ
để con người hạnh phúc, đã tự hạ
để con người được nâng lên, đã chấp
nhận bị đối xử như người tội
lỗi để làm cho con người trở nên thánh thiện,
v.v… Ngài hiện hữu, Ngài làm mọi sự
đều vì người khác, chẳng vì mình một chút
nào. Và Ngài đã biểu hiện tính chất “là của
ăn”một cách cụ thể và tuyệt vời khi lập
bí tích Thánh Thể. Chúng ta ăn Ngài,
nhưng chúng ta đừng quên bắt chước Ngài trong
tính chất ấy. Ngài đã yêu cầu chúng ta: “Anh em hãy làm
như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ
đến Thầy”. Tưởng nhớ ở đây không
gì tốt hơn và ý nghĩa hơn là bắt chước
Ngài trong tính chất ấy: Hãy trở nên đồ ăn
cho những người chung quanh mình, nhất
là những người sống gần mình nhất.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
xin hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn, để con bắt
chước Chúa, là trở nên của ăn cho những
người chung quanh con, bằng cách quên mình đi để
sống vì họ, cho họ.
|