Nhìn thấy Thiên Chúa -
McCarthy
(Trích
trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm
1. NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ THIÊN CHÚA
Có một
câu chuyện ở Châu Phi về Thiên Chúa như sau. Một
ngày nó lúc Thiên Chúa du hành qua các đại lục mênh mông, khi
lên cao khi xuống thấp. Đặc biệt Thiên Chúa nhận
thấy một bộ tộc đã đánh mất đức
tin vào Người. Vì thế, Người hiện ra trong một
cánh đồng nơi có bồn người làm việc, mỗi
người một góc. Những người làm ruộng thấy
Thiên Chúa đứng đó, giữa một cánh đồng,
liền nhìn thật kỹ và rồi họ sấp mình thờ
lạy Người.
Kế
đó, Thiên Chúa biến mất nhưng vẫn theo dõi việc gì xảy ra sau đó. Bốn
người nông dân chạy về ngôi làng của họ, tập
họp dân làng và tuyên bố không còn nghi ngờ gì nữa:
Thiên Chúa thật sự hiện hữu và chăm sóc họ
khi Người ngự xuống viếng thăm họ. Vì vậy,
tất cả mọi người phải bắt đầu
thờ phụng Người một cách nghiêm chỉnh. Dân làng tiếp nhận tin tức với sự nồng
nhiệt. Họ muốn biết những
người ấy đã có thị kiến hay không. Thế
nên một dân làng hỏi: “Thiên Chúa ăn mặc như thế
nào?”.
-
“Người mặc một cái áo choàng
đỏ”, người thứ nhất đáp.
-
“Không, Người mặc một cái áo
choàng xanh lam”, người thứ hai đáp.
-
“Cả hai anh đều sai”, người
thứ ba nói. “Đó là một áo choàng màu xanh lá cây”.
-
“Các anh điên rồi”, người thứ
tư gào to. “Người mặc một cái áo choàng màu vàng”.
Và đến
đây, họ bắt đầu cãi nhau. Hết
cãi nhau lại đánh nhau. Sau cùng, họ khinh miệt
nhau và thù ghét lẫn nhau, và phân chia ra thành bốn bè phái.
Với một chút suy nghĩ, họ có
thể dễ dàng đạt đến sự nhất trí. Mỗi người chỉ
được nhìn Thiên Chúa thoáng qua. Thay
vì nhấn mạnh đến thị kiến toàn diện, họ
nên thừa nhận mỗi người chỉ có được
một phần thị kiến.
Nếu họ cởi mở đối
với quan điểm của người khác thì cuối
cùng họ có thể đạt được một hình ảnh
rộng rãi hơn và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa cao cả hơn tất cả
chúng ta. Chúng
ta có thể không bao giờ hiểu đầy đủ về
Thiên Chúa. Chúng ta đã phải vất vả
để hiểu biết những sự vật trần
gian. Vậy làm thế nào chúng ta có thể
hiểu hết mọi việc trên trời? Chỉ có ơn khôn ngoan mới có thể giúp chúng
ta biết những đường lối của Thiên Chúa.
Người ta có thể biết những chân lý đức
tin nhưng vẫn chưa biết Thiên Chúa.
Có một hình ảnh chính xác về Thiên
Chúa là rất quan trọng.
Nếu chúng ta có một hình ảnh sai lầm,
mọi sự việc khác sẽ mù mờ. Làm thế nào chúng ta có thể cầu nguyện
đúng đắn, hoặc có một quan hệ đúng
đắn với Thiên Chúa, nếu chúng ta có một hình ảnh
sai lầm hoặc không phù hợp với Người?
Người Kitô hữu quan niệm đời
sống là một lời đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Để nói Thiên Chúa giống với
cái gì, tất cả chúng ta chỉ cần nhìn vào Đức
Giêsu. Trong ngôn ngữ của
Thánh Phaolô: “Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô
hình”. Vậy Đức Giêsu giống cái gì?
Trong tất cả những hình ảnh mà chúng
ta có về Đức Giêsu, một hình ảnh đáng yêu nhất
là người Mục Tử Nhân Từ. Chính Đức
Giêsu đã dùng hình ảnh ấy. Đức
Giêsu là Mục Tử Nhân Từ, đã thí mạng sống
mình cho đàn chiên. Trong Đức Giêsu,
chúng ta thấy tình yêu của Chúa Cha đối với chúng
ta. Còn về Chúa Thánh Thần? Chúa Thánh Thần là dây liên kết yêu thương giữa
Chúa Cha và Chúa Con, và giữa hai ngôi Cha và Con với chúng ta.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải
để bàn cãi hoặc nghiên cứu mà để cầu
nguyện và để sống. Người Kitô hữu sống trong thế giới của
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới ấy
không phải là một nơi nào đó ở bên ngoài không
gian. Nó cũng là thế giới của mỗi
ngày. Như trong câu chuyện Châu Phi cho
chúng ta thấy Thế giới mỗi ngày là nơi Thiên Chúa
biểu lộ chính Ngài cho chúng ta.
Suy Niệm
2. Ý NGHĨA CỦA THIÊN CHÚA
Đức tin không phải là thứ tự
kỷ ám thị. Đây
là ân sủng của một sự gặp
gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó.
Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc,
nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện.
Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa bằng trí óc
và bằng giác quan. Thật vậy bằng
toàn bộ cong chúng ta. Chúng tôi không nói về
một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức
về Thiên Chúa – một cảm giác. Đó
là một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn
Ngài, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong
giường ngủ của ông trước một ảnh
Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn
đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời
đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn
độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời,
và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những
cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế
nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi
người ta cảm thấy sự vĩ
đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng
nói trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông
hãy bái quỳ Người và thinh lặng”.
Người nào có cảm giác về Thiên
Chúa và về sự hiện diện của Người
trong đời sống, người ấy thật hạnh
phúc. Đó
là tài sản duy nhất đang có. Như một
người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn
đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy”.
Khi người ta biết một điều
gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn
họ, người ta không cần biện luận hoặc
chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó
và như thế là đủ. Đức
tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa.
Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại
sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ
đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về
sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới,
chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế
giới. Chúng
ta có thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu
thương mọi tạo vật như là công trình của
một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện
của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc lành cao cả,
nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của
Thiên Chúa ở giữa chúng ta là một phúc lành còn cao cả
hơn. Suốt đời,
thánh Âu Tinh đã học theo điều
đó. Ngài viết:
“Ôi Đấng Toàn Mỹ từ muôn
đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm
trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên
trong con, nhưng con ở bên ngoài, và tìm kiếm Chúa ở bên
ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm
trong những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng.
Chúa ở với con mà con không ở với Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách
Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng sẽ
không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu
xin Chúa đến với con khi mà nếu Chúa không ở với
con, con sẽ không còn hiện hữu”.
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ
trong thế giới bên ngoài chúng ta nhưng trong thế giới
bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ.
Người tham dự vào chúng ta như lời Thánh Phaolô
đã nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử
động và hiện hữu” (Cv 17,28).
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi
nơi dù không rõ ràng ở nơi nào. Người
giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc
là kể lại câu chuyện trong lúc ông vẫn đứng ở
hậu cảnh.
Đối với nhiều người,
sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề
lớn. Nhưng “Một
Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa
áp bức, không an toàn thay vì là một sự
động viên không giới hạn đối với bản
chất yếu đuối và hay sợ sệt của chúng
ta. Câu đáp lại của Người hoà nhập
vào cuộc hành trình dài, gồm những sự kiện to lớn
của đời sống, sâu thành chuỗi xuyên suốt mọi
vật” (John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng
ta quy phục nhưng không bị mất chính mình.
CÂU CHUYỆN
KHÁC
Isaac Newton
là một nhà toán học và khoa học vĩ
đại của mọi thời. Tuy nhiên về cuối
đời ông, ông nói về những thành tựu của
mình: “Tôi không biết tôi xuất hiện với thế giới
như thế nào, nhưng đối với tôi, tôi giống
như một cậu bé chơi đàn trên bãi biển và thỉnh
thoảng thích thú vì tìm thấy một viên sỏi bóng loáng
hơn hoặc một vỏ sò xinh đẹp hơn thường
gặp, trong khi đại dương bao la của chân lý
chưa khám phá vẫn còn trải ra trước mắt tôi”.
Cả khi
chúng ta nghĩ rằng chúng ta hiểu được mầu
nhiệm Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ mới bắt đầu. Chúng ta vẫn
chỉ là những đứa bé chơi đùa trên bãi biển.
Mầu nhiệm tăng lên thay vì giảm bớt với mỗi
khám phá mới.
Một số người muốn biết
mọi sự, muốn giải thích mọi sự, muốn
tháo gỡ mọi sự thành những sự kiện. Nhưng sống với mầu
nhiệm là một điều lý thú. Albert Einstein đã
nói: “Kinh nghiệm đẹp nhất chúng ta có thể có là
kinh nghiệm về điều mầu nhiệm
”. cả khi có đức tin thì mầu
nhiệm, bóng tối đều không thế biết vẫn
còn. Chúng ta không thể thấy toàn bộ đời
sống. Như lới Van Gogh đã nói: “Trên trần
gian này, chúng ta chỉ nhìn thấy một nửa bán cầu”
|