Thánh Linh dạy dỗ
Nếu
không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa sẽ xa vời, Chúa Giêsu sẽ
là một nhân vật của quá khứ, Phúc Âm sẽ chỉ
là một bản văn chết, Giáo Hội sẽ chỉ
là một tổ chức trần gian, Giáo quyền sẽ giống
như bất cứ một thứ quyền bính nào khác, việc
truyền giáo sẽ chỉ là một công tác tuyên truyền,
phụng vụ sẽ chỉ là một mớ nghi thức cổ
xưa lỗi thời và cuộc sống theo luân lý đạo
đức sẽ chỉ là kiểu cách hành động của
nô lệ. Nhưng trong Chúa Thánh Thần, vũ trụ trở
thành cao quí vì nước Chúa khai sinh, Chúa Kitô Phục Sinh hiện
diện, Phúc Âm trao ban sứ mạng và sự sống. Giáo Hội
thể hiện sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi,
Giáo quyền trở thành dụng cụ phục vụ, Phụng
Vụ trở thành lễ nghi tưởng niệm diễn tả
trước cuộc sống mai sau và hành động của
con người trở thành thần thánh.
Tư tưởng trên đây của
Đức cố Thượng Phụ Albertô, thuộc Giáo Hội
Chính Thống có thể giúp chúng ta hiểu được sứ
điệp thần học của các bài đọc trong
Chúa Nhật VI Phục Sinh hôm nay. Đó là Chúa Thánh Thần
là Đấng trợ lực và hướng dẫn cuộc
sống Giáo Hội. Tông Đồ Công Vụ
chương 15 là một trang sử đáng ghi nhớ của
Giáo Hội tiên khởi, bởi vì nó cho chúng ta thấy một
số vấn đề quan trọng của cộng
đoàn và kiểu cách Giáo Hội đã giải quyết các
vấn đề đó.
Trước hết là vấn đề
liên quan đến chiều kích đại đồng
trong khác biệt của cộng đồng dân Chúa. Các tín hữu thuộc cộng
đoàn tiên khởi gồm những người gốc Do
Thái cũng như không Do Thái thuộc các dân tộc khác.
Trong đó, có người Hy Lạp, họ làm công tác rao truyền
Tin Mừng của thánh Phaolô và Barnaba và họ đã trung
thành với sứ mệnh và Tin Mừng Nước Trời
cho mọi dân tôc khác.
Vấn đề hội nhập Tin Mừng
vào nền văn hóa Hy Lạp đã được thánh
Phaolô và thánh Barnaba thực thi ngay từ đầu tại
Antiokia để nhận sự trợ giúp của các tín hữu
Antiokia cho giáo đoàn mẹ. Họ đã rao giảng một nguyên tắc trái với
tinh thần của Tin Mừng, bởi vì họ chủ
trương bắt buộc những người không Do
Thái, khi trở thành Kitô hữu cũng phải tuân giữ
các luật lệ của Môisê và tập tục của
người Do Thái như phép cắt bì chẳng hạn.
Vấn đề đã gây tranh luận
sôi nổi đến độ cộng đoàn Antiokia
đã yêu cầu Phaolô và Barnaba hướng dẫn phái
đoàn gồm các tín hữu cộng đoàn Antiokia tuyển
chọn về Giêrusalem tham khảo ý kiến với giới
lãnh đạo và tín hữu của toàn giáo đoàn mẹ. Và
thế là cộng đồng chung đầu
tiên trong lịch sử Giáo Hội được triệu
tập tại Giêrusalem.
Sau khi nghe phái đoàn Antiokia trình bày và
cùng với họ duyệt xét, thảo luận vấn đề
trong bầu khí cầu nguyện dưới ánh sáng và sự
hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các tông đồ
đã lấy quyết định, viết thư trả lời
và gởi phái đoàn đem thư tới cho các vùng Tiểu
Á.
Công đồng quyết định rằng,
trong giáo huấn của Chúa Giêsu đã có tất cả mọi
nhân tố nòng cốt diễn tả bản chất cuộc
sống và lòng tin của Kitô hữu. Đó là hoán cải tâm hồn
và trung thành với giáo huấn Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Cộng đồng chung thì khuyên các tín hữu
giữ ba điều sau đây:
1. Không ăn
thịt ô uế, cúng bái cho các thần linh ngoại giáo.
2. Kiếng máu các súc vật chết
ngạt.
3. Không sống dâm loạn.
Đây là ba luật đã có trong sách Lêvi
(chương 17-18). Theo quan niệm của Do Thái giáo, niềm tin tượng
trưng cho nguyên lý sự sống. Chỉ
có Thiên Chúa là người có quyền trên sự sống thôi.
Kiểu cách giải quyết vấn
đề trên đây của Giáo Hội Kitô tiên khởi phản
ánh tinh thần cộng đoàn trong Giáo Hội. Giáo đoàn Antiokia cũng như giáo
đoàn Giêrusalem không ủy thác cho một nhóm chuyên viên giải
quyết vấn đề mà đã hội họp với
nhau và trực tiếp lắng nghe trình bày vấn đề,
các ý kiến thuận nghịch rồi bàn luận dưới
ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Sau cùng mới đưa ra
quyết định chung, nghĩa là Chúa Thánh Thần trở
thành trợ lực giới hữu trách, trợ lực Giáo
Hội và các vị có nhiệm vụ giải quyết,
nhưng Chúa Thánh Thần không thông tin cho các vị. Bổn phận thông báo tin tức và đầy
đủ và trình bày vấn đề tường tận
đến từng cộng đoàn thuộc mọi thành phần
trong Giáo Hội.
Điều này cho thấy những
đúng đắn giúp giải quyết các xung khắc, các bất
đồng ý kiến trong cộng đoàn Giáo Hội không phải
là dùng thái độ "cả vú lấp miệng em", hà
hiếp anh chị em, dùng quyền bính mà ra lệnh hay hô hào
hiệp nhất. Nhưng trước hết là dẹp bỏ
tất cả mọi sợ hãi, mọi ích kỷ, mọi chủ
trương cá nhân hay bè phái, mọi thái độ cuồng
tín, áp đặt không nhân nhượng và chống đối
nhau để ngồi lại đối thoại, bàn thảo
khách quan duyệt xét vấn đề trong tinh thần cầu
nguyện với tấm lòng rộng mở do ơn Chúa Thánh
Thần soi sáng trong tinh thần huynh đệ chân thành, trong
sáng, vô vị lợi và trong thái độ khiêm tốn thẳm
sâu.
Trong Phúc Âm thánh Gioan (Ga 14,23-29),
Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết sống lòng tin trọn
vẹn để nên thánh và xây dựng cộng đoàn Giáo Hội
là thân mình mầu nhiệm của Ngài trên trần gian này. Đó là luôn biết sống yêu thương kết hiệp
với Chúa Giêsu và qua Ngài yêu thương kết hợp với
Thiên Chúa Cha cũng như thực hành Tin Mừng của
Ngài.
Tin Mừng thánh Gioan, tuân giữ lời
Chúa Giêsu là kiểu nói diễn tả con đường tu
đức của Kitô hữu. Qua lời nói và con người của Chúa Giêsu, Kitô hữu
biết đạt đến sự mạc khải của
Thiên Chúa trên con đường tu đức ấy, họ
được Chúa Thánh Thần hướng dẫn chỉ
bảo, dạy dỗ. Con đường tu đức của
thánh Gioan không phải là một lời kêu gọi khô khan hay
đạo đức luân lý hình thức tôn giáo của Chúa
Giêsu một cách máy móc, mà là lời kêu mời chúng ta mở rộng
tâm hồn cho Thiên Chúa là Đấng hiện diện trên trần
gian này qua lời nói và con người của Chúa Giêsu.
Mở rộng tâm hồn cho Chúa là một
nỗ lực đòi hỏi nhiều khiêm tốn, can đảm,
từ bỏ và chiến đấu với chính con người
của chúng ta, chiến đấu với các tội lỗi,
các đam mê và khuynh hướng chạy theo
sự dữ mà nó đã ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta.
Con đường tu đức tuân giữ
lời Chúa Giêsu là con dốc rất cao, nhưng trên đỉnh
con dốc đó là niềm bình an Thiên Chúa ban
cho các Kitô hữu. Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh thì "an
bình" ám chỉ toàn vẹn của mọi ơn mà Đấng
Cứu Thế đem đến trần gian, và Ngài trao ban
cho con người trong mọi chiều kích của chúng.
Và trong truyền thống Kinh Thánh,
người Do Thái quan niệm những ơn ấy trong chiều
kích vật chất như được đất
đai, thành thị, mùa màng, chiến thắng quân sự, an
ninh và che chở khỏi quân thù... Nhưng trong Tin Mừng,
niềm an bình mà Thiên Chúa diễn tả
trọn vẹn sự mạc khải của Thiên Chúa.
Ơn Chúa Thánh Thần, ơn Tin Mừng với các mối
phúc và chính con người của Chúa Giêsu là thể hiện
một sự trao ban trọn vẹn sự sống cho thế
giới.
Niềm an bình ấy
không trùng hợp với các giá trị của thế giới
này, một thế giới tội lỗi, khép kín, khước
từ Thiên Chúa. Niềm an bình của
Thiên Chúa không giống như an bình bề ngoài giả tạo
của các chế độ ý thức hệ trần gian.
Các chính quyền trần gian ngưng chiến và ký thỏa
hiệp vì không còn sức để chém giết nhau, chứ
không phải vì muốn cho dân nước được an sinh thái bình thực sự.
Niềm an bình Thiên Chúa ban khác hẳn, loại
trừ khỏi tâm hồn con người mọi thái độ
hung hăng, hiếu chiến, mọi thèm khát bất chính,
để làm nảy sinh ra tình yêu thương, tình bằng
hữu chân thành, vô vị lợi, lòng nhân từ tha thứ
và sự công chính.
Niềm an bình của Thiên Chúa là hạt
giống làm phát sinh ra trời mới đất mới
như được diễn tả trong chương 21
sách Khải Huyền: thành thánh Giêrusalem thiên quốc, hình ảnh
Nước Trời, hình ảnh của Giáo Hội vẹn
toàn được thánh hóa biến đổi trong thời
cánh chung như là đích tới của ơn cứu độ.
Trong đó, tín hữu không còn cần một môi giới nào,
kể các đền thánh và ánh sáng mặt trời, mặt
trăng, bởi vì vinh quang Thiên Chúa sẽ làm ánh sáng chiếu
soi họ. Nhưng trước khi đạt tới điểm
thành công ấy, Giáo Hội lữ hành trần thế cần
được mọi thành phần của Thiên Chúa góp sức
xây dựng, vun trồng và đổi mới. Và chúng ta chỉ
có thể chu toàn sứ mệnh đó, nếu biết mở
rộng cánh cửa tâm hồn cho ơn bình an của Chúa giãi
tỏa, Tin Mừng của Chúa Giêsu mỗi ngày trong cuộc
sống để cho Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng
dẫn, hoạt động như Ngài muốn. Amen.
|