CHÚA GIÊSU BAN SỰ SỐNG ĐỜI
ĐỜI CHO CÁC CHIÊN CỦA NGÀI --- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1. Khác với các phúc âm nhất lãm (Lc 22,66-71 và song song), Gioan không tường thuật
vụ án Chúa Giêsu trước công nghị Do thái trong cuộc
khổ nạn. Vì theo ông, vụ án thực
sự đã diễn ra trước khi Chúa Giêsu bị bắt,
trong những lần tranh luận với người Do
thái, đặc biệt trong cuộc tranh luận hôm nay. Lúc
này cũng như trong vụ án chính thức theo
pháp luật về sau. Chúa Giêsu bị ép buộc trả lời
rõ ràng Người có phải là Đấng Messia không (c.24)
và cuối cùng Ngài tự xưng mình là Con TC (x.Lc 22,70) bằng
cách tuyên bố rằng Cha Ngài và Ngài ở trong Cha, trong sự
hiệp thông trọn vẹn đời sống và việc
làm.
Tuy nhiên trước khi tuyên bố dứt
khoát điều đó, Chúa Giêsu cảm thấy phải cứ
quả quyết không ngừng cho những kẻ đối
thoại với Ngài. Đó là điều làm cho người Do thái và
“chiên của Ngài” khác biệt nhau. Đối
với người Do thái, những lời Ngài nói, phép lạ
người làm không đủ thuyết phục họ, vì
xét cho cùng họ có dã tâm và không muốn tin. Chính trong bối cảnh đó mà Chúa Giêsu nói đến
chiên của Ngài, đối nghịch với sự ngoan
ngoãn và ngay thẳng của đàn chiên với tính hiểm ác
của người Do thái. Dĩ nhiên Ngài không cần
nhiều dấu hiệu bên ngoài như vậy, vì chúng nghe và
đi theo chủ chiên. Phần
mục tử, Ngài biết chiên mình và đảm bảo cho
chúng sự sống đời đời. Trong tay Ngài, đàn chiên được an bình không
bị ai đánh cướp.
2. Về câu 29, bản Hy lạp không
được chắc chắn lắm. Các thủ
bản ở đây chia làm nhiều nhóm. Ta có thể
tóm gọn thành hai:
Nhóm thứ nhất chọn câu: ho pâtêr mou ho dedoken moi pântôn
meizon estin, dịch từng chữ là “Cha Ta, điều Ngài
ban cho Ta thì lớn lao hơn tất cả” (bản Vaticanus,
Versions latines, Sinaiticus, Codex Freer và chung
chung các giáo phụ Latinh). Câu này có thể hiểu được
hai cách: điều mà Chúa Cha ban cho Chúa Con chính là bản tính
của Người (Augustin, Thomas, Lnabenhauer...) hay quyền
năng của Người (Schanz, Belser...) và đó là điều
cao trọng hơn tất cả. Nhưng ai mà dám nghĩ
đến việc cất bản tính và quyền năng của
Chúa Con khỏi tay Chúa Cha? Cho nên lối giải
thích thứ nhất này khó chấp nhận xét theo
văn mạch. Văn mạch nói đến việc ban tặng
là ban tặng các chiên (ý kiến chung), vì thế phải hiểu:
“Điều mà Chúa Cha ban cho ta (các chiên) là quà tặng quí giá
nhất”, như thế ta hiểu đó là lý do khiến Chúa
Con phải giữ gìn quà tặng đó, và một khi đã
ban cho Con, Chúa Cha cũng luôn lưu tâm đến tặng vật
này.
Nhóm thủ bản thứ hai (nhóm K, Codex Coridethi, codex Bezae, và các giáo
phụ Hy lạp) chọn câu: ho pâtêr mou hos dedôken moi pantôn
meizôn estin, có thể dịch: “Cha Ta, đấng đã ban cho
chúng ta, thì lớn hơn tất cả mọi sự”,
nghĩa là: Cha Ta, Đấng đã ban cho Ta các chiên, là Đấng
cao trọng hơn mọi loài và vì thế...Ngài đặt
chúng trong tay Ta mà không ngừng giữ chúng trong tay Ngài. Ở
đây, tay có nghĩa là quyền năng,
quyền năng chung của hai Đấng. Câu này xem ra thích
hợp hơn với văn mạch và đã được
số đông tác giả theo (Louis, Bultmann, Barret, BJ, TOB...).
Tuy nhiên nó bị chỉ trích là đã được sửa
đổi để thêm phần sáng sủa. Nói rằng
Chúa Cha lớn lao hơn hết mọi sự
là điều hiển nhiên, cần gì nêu lên ở đây. Dầu vậy, câu (b) này ngày nay đã được
hầu hết chấp nhận.
Dù sao, điều làm chúng ta chú ý chính là tay của Chúa Con, được đặt
ngang hàng với tay Chúa Cha, hay đúng hơn cả hai tay cùng
bảo vệ giữ gìn đàn chiên. Chúa Giêsu xem ra tự gán
cho mình quyền ban sự sống cho các tâm hồn và giữ
gìn chúng trong tay. Nhưng rồi theo thói
quen (5,19tt; 6,37;7,16; 8,49; 10,18), Chúa Giêsu vội vàng liên kết
Cha Ngài vào công trình của Ngài, vì Cha là nguồn mạch mọi
ơn huệ: Chúa Cha giao cho Chúa Con một vật và gìn giữ
bằng sức mạnh của mình, cũng như Chúa Con gìn
giữ những gì nhận được từ Cha.
3. Lời tuyên bố trong câu 30 ("Cha và
Ta là một") về sự hiệp thông mật thiết
của Chúa Giêsu với Cha Ngài là một mạc khải quan
trọng rõ ràng nhất về thần tính của Ngài và mầu
nhiệm sâu xa của TC. Chính trên đỉnh sáng ngời
đó mà Chúa Giêsu chấm dứt tranh luận với người
Do thái: Ngài có thể mạc khải thêm cho họ điều
gì nữa? Và đó là nghĩa mà người Do thái hiểu
khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố như thế, vì lập tức
sau đó họ ném đá Ngài “bởi lẽ ông là một
người phàm mà dám cho mình là TC”.
Câu 30 này đã nổi tiếng trong lịch
sử tranh luận với tà giáo Ariô. Chúa Giêsu không nói: “Ta và Cha Ta, chúng ta là một
ngôi vị” (heis) nhưng bảo: “chúng ta là một sự
(hen, chose), chúng ta đồng một bản tính và vì thế
mà tay Ta (c.28) cũng quyền năng
như tay Cha Ta” (c.29). Tất cả thần học gia chống
Ariô, từ tertullien đến Augustin đã dùng câu 30 làm công
thức thánh kinh nói về việc Chúa Cha và Chúa Con đồng
bản tính nhưng khác ngôi vị.
KẾT
LUẬN
Ân sủng thần linh cho chúng ta sức
mạnh để vượt thắng mọi khó khăn
bên ngoài (Rm 8,31-39) bất cứ từ
đâu đến, nhưng ân sủng không ép buộc ai cả.
Con người có thể từ chối không muốn
được cứu rỗi: “TC chỉ từ bỏ những
ai xa tránh Ngài trước” (công đồng Triđentinô, DS
1537).
Ý HƯỚNG
BÀI GIẢNG
1. “Người Do thái mới vây quanh Chúa
Giêsu”. Họ muốn chất vấn Ngài lần
nữa vì Ngài làm họ khó chịu. Họ đột
nhiên nói với Ngài: “Cho đến bao giờ nữa, ông còn
để lòng trí chúng tôi phân vân lưỡng lự? Nếu quả ông là Đức Kitô, xin nói trắng
ra cho chúng tôi”. Chúa Giêsu hẳn làm cho họ
bối rối nhiều và có lẽ làm cho họ nghi ngờ.
Họ muốn biết thực hư. Ai
trong chúng ta không một lần chất vấn Chúa như thế:
Ngài là ai đối với tôi hôm nay? Tìm Ngài chỗ
nào? Trong mọi hỗn loạn thời
đại, trong bao cuộc đặt lại vấn đề,
Chúa ở đâu? Đâu là sự thật?
Đúng hơn, khi một vấn đề đặt ra khiến
phải chọn lựa chúng ta đã không từng muốn một
câu trả lời rõ ràng đó sao? Thảm kịch
chính là chúng ta không biết gì nữa; khiến ngập tràn
đến độ làm chúng ta không còn hiểu gì nữa.
Đây là một nghịch lý đáng sợ: kiến thức
càng tăng thì càng dẫn đến sự vô tri về chân
lý. Như những người Do thái, chúng ta muốn biết
ai là người kêu gọi chúng ta qua phúc âm, ai là người
đảo lộn cuộc hiện hữu của chúng ta và
đặt lại vấn đề đời sống
chúng ta.
Chúa Giêsu xem ra không trả lời gì cả. Chính công việc Ngài đã thực hiện
làm chứng cho Ngài; và nếu người ta không tin Ngài,
đó là vì họ không thuộc đàn chiên Ngài, theo Ngài và thuộc về Ngài vì Chúa Cha đã ban
họ cho Ngài. Và Ngài nói: “Cha ta và Ta là một”. Phải
nói là câu trả lời của Chúa Giêsu làm chúng ta hoang mang.
Chúng ta vừa chấp nhận, vừa bất mãn, vừa
nghi nan. Câu trả lời
đó của Chúa Giêsu gợi lên những âm hưởng sâu
xa, đánh động tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên chúng ta
không thỏa mãn vì câu ấy đặt ra nhiều vấn
đề: làm sao trở thành chiên của Chúa. Đặt
vấn nạn này là vì chúng ta không biết câu trả lời;
thế mà hình như Chúa Giêsu nói rằng câu hỏi chỉ
đặt ra cho những kẻ không thể hiểu câu trả
lời. Những phản ứng của chúng ta vừa
biểu lộ sự thỏa mãn cũng như bất mãn;
điều đó chứng tỏ chúng ta vừa là chiên vừa
là người Do thái, và chúng ta vẫn đặt câu hỏi
mặc dầu một cách nào đó đã biết câu trả
lời.
2. Nên lưu ý nghịch lý này là: những
ai đặt câu hỏi thì không thể nghe được
câu trả lời; còn những ai nghe được câu trả
lời thì không cần đặt câu hỏi. Người Do
thái đặt câu hỏi, chúng ta cũng vậy, một phần
nào đó trong con người chúng ta chưa thuộc về
Chúa cũng muốn hạch hỏi Người. Nếu người Do thái đã có khả năng lắng
nghe, thì họ đã gặp được câu trả lời,
đã sống câu ấy và không hỏi gì nữa. Đặt
vấn nạn như họ làm cho họ không nắm
được câu đáp, vì họ chỉ chuẩn bị
để phê bình, lượng giá câu trả lời theo các định kiến và hiểu biết
của họ. Họ chỉ chấp nhận
chân lý bao lâu họ thấy hòa hợp với những gì họ
đã biết. Họ không thể chấp
nhận Đức Kitô bởi không chịu được
một giải đáp khác với giải đáp họ
đã có sẵn.
3. Trái lại, các chiên không đặt câu hỏi,
không phải vì đã biết được giải
đáp, song vì điều đó không cần thiết. Chúng có một não trạng khác. Chúa Giêsu diễn
tả chúng bằng hai tiếng: “Chúng nghe và theo”;
Ngài nói tiếp: “Ta biết chúng” và “chúng biết ta”. Đàn chiên không cần đặt vấn đề
danh tánh Chúa Giêsu. Chúng thuộc về một
giống đặc biệt. Cũng như chúng ta vừa
thuộc não trạng người Do thái đang cật vấn
Chúa, vừa thuộc dòng giống này. Chúa Giêsu diễn tả
đàn chiên với vẻ âu yếm: Ngài biết chúng, ban cho
chúng sự sống, bảo vệ chúng khỏi những kẻ
ám hại. Đàn chiên không thể cắt nghĩa vì sao Ngài
làm như vậy, nhưng chúng biết Ngài nên “chúng nghe và
đi theo Ngài”. Chúng sẵn sàng lắng
nghe, đón nhận cái bí ẩn, đi đến nơi mà
Chúa dẫn tới và chấp nhận mọi nghịch cảnh
có thể xảy tới.
4. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta
đừng quá ham chất vấn, luôn tìm cách phân tích cái mới
lạ, giản lược nó thành tầm thường -
đó là một cách tự đóng kín mình, làm mình mất khả
năng tiến bộ, biến đổi. Hãy biết lắng
nghe, biết mình ngu dốt, biết rằng
đấng vô danh luôn luôn kỳ lạ, rằng một cách
nào đó Chúa luôn là một đấng chúng ta không thể biết
rõ, vì chúng ta không thể hiểu được cách tường
tận bao lâu còn ở thế gian này. Nhưng để luôn
luôn kết hợp mật thiết với Chúa, để sống
hạnh phúc thật sự ở cõi trần này, chỉ có một
con đường: nghe và theo Chúa.
|