Làm chứng
Trong một buổi
toạ đàm về lễ Phục sinh, có một thanh niên tên
là Lim, không tin Đức Kitô Phục sinh. Anh nói: “Tin tôi đi,
các bạn, chẳng có Đức Kitô nào sống lại hết.
Đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng mà
thôi, tranh cãi làm gì mất công, phí thời giờ, các bạn
sẽ thấy ngay bây giờ, tôi cho Đức Kitô hai phút, nếu
có Ngài thì Ngài cứ việc đánh tôi chết”. Nói xong anh ưỡn ngực chờ đợi.
Hai phút trôi qua, chẳng có gì xảy ra. Lim
đắc thắng nói: “Đó, các bạn thấy rõ rồi
nhé, Đức Kitô có đâu nào?”. Mọi người đều im lặng.
Một lúc sau, có một người
lên tiếng: “Anh Lim này, tôi là một người cha. Tôi có một
đứa con trai, có lẽ bằng tuổi anh. Giả như
bây giờ nó có mặt ở đây và nó cầm dao
đưa cho tôi rồi nói: “Tôi không chắc ông có phải là
cha tôi thật không, người ta nói sao thì tôi biết vậy
thôi. Họ bảo ông là cha tôi, nếu thực
sự đúng như vậy, thì sao đây, ông hãy cầm lấy
và đâm tôi đi, nếu không, chính tôi sẽ đâm ông”.
Anh nghĩ coi: tôi phải xử trí thế nào? Thú thật
tôi không đủ khả năng cho nó thấy tôi là cha nó theo cách nó đòi hỏi. Nhưng có phải từ
sự kiện tôi không dám đâm chết nó mà anh có thể kết
luận: tôi không thực sự là cha nó không? Vì
thương nó nên tôi không đâm chết nó. Là cha nó, tôi thà để mình bị đâm chết
hơn là cầm dao đâm chết con. Chết vì tay nó, tôi chứng tỏ cho nó thấy tôi chính
là cha nó. Nó đòi hỏi, nhưng tôi không làm theo
cách nó mong muốn, mặc dầu tôi có thể đâm nó chết.
Anh Lim này, anh hiểu điều tôi vừa nói
chứ? Anh cũng vừa phỉ báng Thiên Chúa như thế
đấy, nếu Đức Kitô không đánh chết anh,
thì không phải là vì không có Ngài, mà vì Ngài thương anh
đó thôi. Bởi vì trong tình yêu bao giờ
cũng có một yếu điểm nghịch thường
mà người ta không thể diễn tả hết
được”.
Người ấy nói tiếp: “Anh
nghĩ xem, giả như anh nắm tay đấm vào đá
thì tay anh sẽ bị đau chứ không phải là đá. Đá phản ứng lại cử chỉ kiêu
căng của anh một cách mãnh liệt. Nhưng nếu
anh đấm xuống nước, tay
anh không hề hấn gì, nước chỉ dao động
một chút rồi thôi. Và nếu anh đấm
vào không khí chúng ta đang thở, anh sẽ chẳng cảm
thấy gì hết. Không khí có vẻ bất
lực ấy lại cần cho đời sống của
chúng ta hơn là đá cứng nhiều. Cũng
thế, Thiên Chúa trở nên như yếu đuối và
như vô hình giữa chúng ta. Giả như chúng ta có chửi
bới Ngài, Ngài chẳng bợp tai chúng
ta, trong khi nếu chúng ta làm thế với bất kỳ ai
khác, chúng ta sẽ lãnh đủ. Thiên Chúa trở
nên yếu đuối và bất lực, nhưng trong cuộc
sống, chúng ta cần đến Ngài hơn bất cứ
điều gì khác. Anh Lim này, Đức
Kitô yêu anh lắm, anh cũng phải yêu lại Ngài nhé.
Anh hãy tin Ngài và sống đạo tốt
hơn anh sẽ cảm thấy điều tôi nói là chân thật”.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng
ta, và chúng ta vẫn còn kiên trì giữ vững đức tin
cũng như tuyên xưng đức tin. Đức
tin ấy Chúa ban cho chúng ta ngày chúng ta chịu phép rửa tội.
Đức tin ấy như một đèn sáng hướng dẫn
cuộc đời chúng ta. Nguyên việc chúng ta có mặt
trong nhà thờ lúc này là một bằng chứng cụ thể
rõ ràng. Và chúng ta đến nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật
là chúng ta chứng tỏ đức tin và tuyên xưng đức
tin vào Đức Kitô Phục sinh. Mỗi Chúa
nhật là một lễ Phục sinh. Việc
Đức Kitô Phục sinh là một thực tại chắc
chắn. Điều đó các tông đồ không cần
phải tin, vì đích thân các ông đã được cảm
nghiệm: đã thấy Chúa, đã nghe tiếng Chúa rõ ràng,
đã thấy những việc quen thuộc Chúa thường
làm, đích thực 100/o Chúa đã sống lại. Còn chúng
ta, chúng ta tin, vì chúng ta không thấy. Dù không thấy, chúng ta vẫn
tin một cách tuyệt đối. Chúng ta đi đạo,
theo đạo, giữ đạo, tin đạo,
tức là chúng ta tin Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta
tin Chúa sống giữa chúng ta và đang điều khiển
vũ trụ này. Một trong những điều đòi hỏi
chúng ta thể hiện đức tin, cũng là điều
ghi lại trong bài Tin Mừng, đó là các môn đệ
đánh cá suốt đêm mà không được gì. Lúc ra về,
họ đành thú nhận tay trắng,
công dã tràng. Đó là sự giới hạn của
họ và cũng là bài học cho tất cả chúng ta. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Nếu con người chúng ta cứ thành công
mãi như ý mình, chúng ta sẽ tưởng mình là vô địch,
mình có thể làm được mọi sự mà không cần
đến Chúa. Nhưng rất may, ở trần gian
này có một định luật là sự giới hạn:
giới hạn của vật chất chung
quanh chúng ta, giới hạn của khả năng con người,
giới hạn của chính đời sống chúng ta… Không ai trong chúng ta có thể sống vượt ra
ngoài những giới hạn đó.
Cho nên, chúng ta tin Chúa là chúng ta nhận
biết thế đứng của mình trước Thiên
Chúa, biết sự giới hạn của mình trước
Đấng toàn năng đã phán: “Không có Ta, các ngươi
không làm gì được”. Vì thế, trong mọi hoạt
động của đời sống, chúng ta phải cầu
xin Chúa thực thi chương trình của Ngài nơi mỗi
người chúng ta và xin cho chúng ta biết thân phận mình,
biết sự giới hạn của mình, để chúng ta
luôn tin tưởng và cậy dựa vào Chúa.
Một điều nữa chúng ta
cũng cần ghi nhớ: các tông đồ tin Chúa sống lại,
các ông không giữ lại niềm tin đó cho riêng mình, nhưng
các ông đã ra đi rao giảng, làm chứng cho mọi người
biết Chúa đã sống lại. Chúng ta cũng vậy,
chúng ta cũng phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng
cách thánh hoá những việc làm hàng ngày, là đem tinh thần
đức tin vào trong ý tưởng, trong lời nói, trong việc
làm của chúng ta, và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi
dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải
đem tinh thần Tin Mừng vào công việc trần thế,
vào nghề nghiệp, vào các giao tiếp với người
khác, vào cả những lúc vui chơi giải trí… Chúng ta xao
lãng bổn phận này hay chúng ta tách rời tinh thần Tin Mừng
khỏi đời sống là chúng ta chưa sống đạo
đầy đủ đúng nghĩa.
Trong mỗi thánh lễ, chúng ta tung hô sau truyền phép “Lạy Chúa, chúng con
loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống
lại cho đến khi Chúa lại đến”. Chúng ta tin trong
lòng, chúng ta tuyên xưng ngoài miệng. Và chúng ta
biết rằng hiệu quả hơn chính là trong cuộc sống.
Đời sống của chúng ta là bằng chứng rõ ràng
nhất diễn tả đức tin. Chúng ta hãy cố gắng
sống thế nào để người khác nhận biết
chúng ta là người có đức tin, là người con cái
Chúa.
|