Mary Surratt, phụ nữ vô tội
Bộ phim “Kẻ Âm Mưu” (The Conspirator) của Robert Redford được trình chiếu chỉ vài ngày sau lễ kỷ niệm 150 năm (Sesquicentennial) vụ tấn công ở Fort Sumter, nội chiến bắt đầu – khơi dậy ký ức tuổi thơ.
Bà cố tôi là Lillian Webster Keane, cư dân Washington lâu năm, thường nói về sự bất công mà bộ phim “Kẻ Âm Mưu” phác họa.
Thật thích hợp, bộ phim “Kẻ Âm Mưu” công chiếu ngày 15-4, cùng ngày mà 146 năm trước, cố tổng thống Abraham Lincoln đã ăn mừng chấm dứt cuộc nội chiến.
Cuộc xung đột đẫm máu miền Bắc chống lại miền Nam đã tàn phá đất nước trong 4 năm, và đã chấm dứt chiến tranh ngày 9-4-1865, khi tướng liên bang Robert E. Lee đầu hàng tướng liên minh Ulysses S. Grant tại Appomattox Courthouse.
Sau khi vui mừng đi xe ngựa với đệ nhất phu nhân Mary Todd Lincoln, ngập tràn không khí mùa xuân ở Washington, vị tổng thống này (rất yêu văn chương) ngồi say đắm xem vở kịch “Our American Cousin” ở nhà hát Ford.
Dĩ nhiên, vở kịch về thiên anh hùng ca này mau chóng thu hút khán giả, khi cảm tình viên liên bang John Wilkes Booth, một diễn viên nổi tiếng và khuôn mặt quen thuộc tại nhà hát, đến chỗ tổng thống Lincoln và bắn chết ông, la lớn: “Sic semper tyrannus” (luôn như vậy đối với các bạo chúa). Khi diễn viên này chạy lên sân khấu và vấp ngã bị thương chân, rồi khập khiễng trốn thoát theo kế hoạch.
Trong vụ điều tra bi kịch tiếp theo, vụ bà Mary Surratt, một người Công giáo ở Maryland, bị kết tội đồng lõa ám sát tổng thống. Bà bị xử tử treo cổ ngày 7-7-1865. Bà là nữ diễn viên đóng vai Robin Wright trong một bộ phim của đạo diễn Redford.
Lillian Webster biết rõ Lm. Jacob Walter, người rất gần gũi với Surratt, vì ngài giải tội cho bà Surratt trước khi bà bị xử tử. Lillian nói rằng Lm Walter luôn chắc chắn là “người ta đã xử tử oan một phụ nữ vô tội”.
Mỉa mai thay, cố tổng thống Lincoln là “điềm gở” cho sự bất công này!
Mười năm trước, khi ông viết thư cho người bạn thân Joshua Speed: “Là một quốc gia, chúng ta bắt đầu bằng cách tuyên bố ‘Mọi người được sinh ra đều bình đẳng như nhau’. Khi những người “không biết gì” (Know-Nothings) lên nắm chính quyền, bản tuyên ngôn được sửa lại là ‘Mọi người được sinh ra đều bình đẳng như nhau, trừ người da đen, người ngoại quốc và người Công giáo’. Khi điều này xảy ra, tôi sẽ sang một quốc gia khác, nơi mà người ta không giả vờ yêu tự do – tới Nga chẳng hạn, nơi mà chế độ chuyên quyền (despotism) có thể được coi là thuần túy, và không có sự giả hình cơ bản”.
Cha của bà cố tôi là Bradshaw Hall Webster, đã làm việc trong cuộc vận động tranh cử tổng thống Lincoln. Khi vận động tranh cử, người con của miền Bắc này đã gặp bà cố của bà cố tôi là Martha Mungen Starrett, người có đồn điền ở Jacksonville, bang Florida.
Khi nhà máy gỗ của cha của bà cố Bradshaw ở Orono, Maine, bị đốt cháy, ông cố đã kiềm chế – vì ông cố là nhà văn và diễn giả (writer and orator) – đã xuôi ngược khắp bờ biển miền Đông. Sau khi Martha qua đời năm 1881, Mason tái hôn lần thứ 33 – dĩ nhiên là một người Công giáo, người mà ông đã gặp ở một trường dòng nơi con gái của ông theo học.
Lillian, sinh năm 1878, chỉ mới 3 tuổi khi cha của bà tái hôn, và bà mau chóng trở thành người Công giáo. Bà viết trong nhật ký về cách đức tin đã “làm nhẹ gánh nặng của cuộc sống”. Năm 1888, sau khi bầu tổng thống Benjamin Harrison, Bradshaw chuyển gia đình tới Washington.
Đó là bà cố có “máu lạnh”, có quan hệ với Daniel Webster và tổng thống William Henry Harrison, sinh trưởng trong một môi trường văn hóa xã hội mà cuộc nội chiến đã thiêu đốt nhiều năm trước.
Bà cố hòa mình vào cộng đồng Công giáo ở Washington, gồm những người bạn cũng bị kết án và bị xử tử oan sai là bà Mary Surratt, đang hò hẹn yêu thương với con trai của bác sĩ Samuel Mudd, người đã chữa gãy chân cho Booth.
Sau vụ ám sát tổng thống Lincoln, ước muốn báo thù rất mạnh, một tòa án quân sự đã khiến bà Surratt phải chết – một số phận mà bà phải đối mặt bằng đức tin, bà luôn mang theo mình chuỗi Mân Côi và cầu nguyện cho đến cuối đời. Bà cố tôi luôn nói: “Hai cái sai không làm nên một cái đúng” (Two wrongs don’t make a right). Con gái của bà và bà Helena của tôi, cũng như bà Surratt, chết quá trẻ – vì là nạn nhân của sự bất công.
Như BS Mudd, tổ tiên của ông đã vô vọng tìm được công lý – mặc dù đã được cố tổng thống Andrew Johnson xin lỗi năm 1869 công khai vì có công cứu giúp những nạn nhân bị sốt vàng da trong nhà tù quân đội, như được diễn tả trong bộ phim The Prisoner of Shark Island năm 1936 – tên của bà Mary Surratt vẫn bị bôi nhọ – điều mà bộ phim “Kẻ Âm Mưu” hy vọng sửa sai.
Như vậy, cuối cùng thì bà cũng đã yên nghỉ tại nghĩa trang Mount Olivet ở Đông Bắc Washington, không xa nơi bà Helena của tôi được an táng.
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ NCRegister.com)
|