Biển-Đức Đỗ Quang-Vinh (Toronto, Canda)
chuyển-ngữ từ bài viết của Benoît Fidelin trong
tạp-chí Pèlerin Magazine.
No. 5495, 25 Mars 1988.
Cậu bé vùng Piémont đã trở nên linh-mục của
các trẻ em bị bỏ rơi. Ngài tạ thế cách đây hơn 100 năm
(nguyên-bản là 100 năm, viết năm 1988, kỷ-niệm giỗ
100 năm vị thánh qua đời). Đời Ngài là cả một tình thương trải rộng bao-la
do Tin Mừng Đức Kitô thúc đẩy, và noi gương Ngài, hàng ngàn người đã và đang dấn
thân phục-vụ giới trẻ, tại Pháp cũng như trên toàn thế-giới.
Đó là GIOAN, con của gia-đình Bosco, cậu bé có
nụ cười trong sáng, vầng trán bướng-bỉnh, đôi mắt đen nhánh, tóc rối bù như lông
chiên. Thuở mới lớn lên, ngày ngày Gioan Bosco dắt đàn bò đi vào các vùng núi
đồi miền Piémont, nước Ý. Cậu tập cuốc đất, phát cỏ, sử-dụng liềm, mác, và tập
vắt sữa bò. Từ thuở đó cậu đã hiểu thế nào là đói khát và đã từng chứng-kiến
cảnh chết-chóc ly-biệt.
Nạn đói hoành-hành năm 1817, lúc Gioan vừa mới
lên hai tuổi, khi sương giá mùa xuân và những cơn hạn-hán khủng-khiếp tàn
phá tất cả mùa màng. Nông-dân phải giết gia-súc để ăn thịt. Người ta gặp thấy
trong các mương rãnh, xác những kẽ hành-khất chết đói, miệng còn ngậm cỏ...
Và cả cái chết nữa, như cha cậu đã ngã qụy
xuống vì chứng sưng phổi vào một buổi chiều tháng năm rất đẹp trời nhưng cũng
thật buồn thảm.
Mẹ cậu, bà Ma-ga-ri-ta, mới 29 tuổi đã góa
chồng. Nhưng bà sống thắt lưng buộc bụng, vỡ đất làm rẫy, nuôi dạy con cái cách
dịu-dàng mà nghiêm nhặt. Bà ở trong ngôi nhà gạch tồi-tàn vừa là chỗ ở, vừa làm
kho lẫm, vừa làm chuồng bò. Hai bao bắp để trong bếp và hai con bò cái nằm sau
liếp vách ngăn. Phòng ngủ ngay dưới mái nhà và nệm lót bằng lá bắp. Nhưng chính
ở đó, ngay trong cảnh nghèo nàn trơ-trụi ấy, cuộc đời bé Gioan Bosco đã bừng
sáng lên.
Chỉ một giấc mơ bình-thường đã khiến cậu tin
rằng trọn cuộc đời mình được Chúa Giêsu Kitô mời gọi để chăm lo cho các trẻ em
bị ruồng bỏ. Năm lên 9, bé Gioan mơ thấy mình đứng giữa một đám trẻ bụi đời
ngổ-ngáo. Chúng chửi thề, văng tục, và Gioan đã trả đũa lại bằng những cú đấm
ngoạn-mục. Nhưng một người với diện-mạo sáng ngời đã gọi tên Gioan và bảo:
"Con phải chinh-phục chúng, không phải bằng tay chân như thế, mà là bằng khổ đau
và lòng yêu mến". Gioan hỏi: "Ngài là ai mà đòi con phải làm những việc
không thể nào làm nổi như vậy?"; và người lạ mặt đã trả lời: "Ta là Con
của Bà mà mẹ con vẫn dạy con cầu nguyện với Bà mỗi ngày ba lần". Cũng trong
giấc mơ đó, Ðức Trinh-Nữ Maria đã hiện ra với cậu. Bằng những hình-ảnh khác,
Người loan báo cho cậu cũng một sứ-mạng ấy: chăm sóc các trẻ em bị bỏ rơi.
Thế là bắt đầu cuộc phiêu-lưu! Từ lúc còn rất
nhỏ, Gioan đã nói rằng cậu ao-ước trở thành linh-mục. Trong thời-gian đợi chờ,
cậu tụ-tập bạn-bè ở ngoài đồng để diễn-thuyết, làm hề và biểu-diễn cả ảo-thuật
nữa. Nhưng lúc nào cũng thế, trước khi tới màn cuối, "ông bầu" lại lôi cỗ tràng
hạt trong túi ra, qùy xuống và mời cả đám trẻ cùng cầu-nguyện.
Gioan say mê đọc sách và nuôi chim. Ngồi dưới
bóng cây im mát, cậu ngấu-nghiến đọc những cuốn sách mượn được của một vị
linh-mục ở một xứ đạo hẻo-lánh. Rồi trèo lên cây, cậu gỡ tổ chim và bắt những
con sáo nhỏ, đem về nuôi trong lồng làm bằng cành cây dương-liễu, rồi dạy chúng
hót. Chuyện học-hành ư? Chỉ khi nào ngoài đồng ruộng hết bóng người thì cậu mới
tới trường. Cậu không chịu học-hành đến độ đã gây-gổ với người anh cả và đã phải
bỏ nhà đến làm việc tại một làng kế bên. Sau bao năm lao-động ròng-rã, cuối cùng
mới gặp được dịp may: một vị linh-mục già thấy cậu thông-minh thì yêu mến, nhận
nuôi và dạy cho cậu học tiếng La-tinh. Sau khi Cha qua đời, được mẹ giúp đỡ và
cũng được nhiều ân-nhân tiếp tay, cậu theo học tại trường trung-học ở tỉnh bên.
Hằng ngày đi bộ mười cây số, bất kể mưa gió hay nóng bức bụi-bặm. Tất cả chỉ để
làm linh-mục! Gioan sẽ không bao giờ quên điều ấy. Và rồi sau sáu năm học ở
chủng-viện, năm 1941, cậu đã trở thành linh-mục DON BOSCO!
Người ta mau chóng trao cho Ngài những công
việc của một linh-mục tuyên-úy. Nhưng Ngài chỉ muốn một điều là các trẻ em.
Thời-kỳ ấy là thời-kỳ cách-mạng kỹ-nghệ, thành-phố Turin là nơi hấp-dẫn đã lôi
kéo hàng ngàn người di-dân đến kiếm sống. Các thanh, thiếu-niên làm việc ngắn
hạn ở các xưởng đóng tàu, rổi lang-thang thất-thểu dọc bờ sông Pô, không một
đồng xu dính túi. Những em khác vào tù. Don Bosco đi gặp họ tất cả, và Ngài được
sự giúp đỡ của Cha Don Cafasso, vị linh-mục của "giới bần cùng". Ngài dám trèo
lên các xe bò chở tử-tội để an-ủi họ suốt lộ-trình cho đến pháp-trường.
Ngài lôi kéo được Don Bosco đi vào trại giam; ở
đó vị linh-mục trẻ tuổi người vùng Piémont buồn rầu đảo mắt nhìn cảnh tù đày,
cái nhìn đó cũng ngăn đe mấy cậu bé đang chen-chúc trong các xà-lim hôi-hám,
chúng tiều-tụy đi vì nạn chí rận, ăn toàn bánh mì đen và uống nước lã. Thật vô
cùng khủng-khiếp! Don Bosco bàng-hoàng kinh-hãi, Ngài gào lên trong cổ họng:
"Quá nhiều thanh-niên bị nhốt ở đây, bởi chẳng có ai săn-sóc đến họ. Tôi phải
giúp-đỡ, dạy-dỗ họ. Tôi muốn cứu giúp những kẻ bất hạnh này". Và Ngài sẽ làm như
Ngài đã nói thế!
Ít lâu sau, có một lần kia khi Ngài chuẩn-bị
dâng thánh-lễ tại nhà thờ Thánh Phan-xi-cô Át-si-gi-ô, Chúa đã dẫn đến cho Ngài
một cậu bé tên là Ba-tô-lô-mê-ô Ga-ren-li, em mới từ xa đến thành-phố này kiếm
sống. Đầu cạo trọc-lóc, áo dính đầy vết vôi. Don Bosco qùy xuống và dạy em cầu
nguyện. Sau đó Ga-ren-li trở lại, dẫn theo năm đứa, mười đứa, rồi tới một trăm
đứa, bạn bè của nó, đứa nào cũng bị Don Bosco chinh-phục bằng tình yêu thương
Ngài dành cho chúng. Ngài giảng dạy về Thiên-Chúa cách cụ-thể, nhờ những sự-kiện
hấp-dẫn và những chi-tiết lý-thú làm chúng say mê.
Họ quấn-quýt và không rời bỏ nhau nữa. Trong
các nhà nguyện cũ, trên những bãi đất trống vùng ngoại-ô, và trong các vựa lúa,
các em kéo đến ngày một đông hơn để nghe Ngài giảng, để được Ngài dạy-dỗ
huấn-luyện nên người và nên con cái Chúa.
Vì lo-lắng cho tương-lai các em, Don Bosco mở
các xưởng dạy nghề. Ngài nghĩ ra việc ký giao-kèo lao-động để kiếm việc cho các
em, trước khi lao mình vào việc viết lách và xuất-bản, nhằm mục-đích giáo-dục và
phát-triển đức tin Công-Giáo nơi các em. Công-trình lớn mạnh. Nhờ có các ân-nhân
tài-trợ nên Ngài đã xây-dựng được nhiều nhà cho các em. Don Bosco đặt trọn niềm
tin nơi Chúa Quan-Phòng.
Chẳng bao lâu, một "Tổ Ấm" hình-thành với 15,
20, rồi 600 em nội-trú. Vì không muốn cho tương-lai các em quá tồi-tệ, Cha Don
Bosco cho dựng thêm nhà cửa, mở một lớp học tối, rồi mời các linh-mục và những
người thiện-nguyện đến dạy cho các em. Họ làm việc trong nhà bếp, trong phòng
mặc áo lễ ở gian bên của cung thánh. Trên hết mọi sự, họ rất mực yêu thương nhau,
vì sư-phạm của Cha Gioan là Sư-Phạm Của Tình Thương. Lý-thuyết mà làm gì?
Ngài không mong xây-dựng một "kiểu" giáo-dục lỗng-lẫy. Ngài nói: "Hệ-thống
giáo-dục của tôi ư? Chính tôi, tôi cũng chẳng biết nữa."..."Tôi chỉ có công này,
là tiến về phía trước theo sự dẫn-dắt của Chúa, rồi tùy hoàn-cảnh mà
xử-trí".
Quả thế, Ngài chủ-trương một đường lối sư-phạm
"ngay tại chỗ", đặt tin-tưởng vào bản-chất của con người đã được Thiên-Chúa
cứu-độ và tin vào sự hiện-diện hữu-hiệu của nhà giáo-dục. Don Bosco ước-đoán
được những nỗi cùng khổ và âu-lo của từng em một. Ngài biết rằng tuổi thanh
thiếu-niên là tuổi đầy-dẫy những nghi-ngờ, những phiền-muộn, tuổi của phẫn-nộ và
thất vọng. Thế là Ngài đến với chúng, nói một câu khôi-hài, kiên-trì mời gọi
chúng đối-thoại, cũng như vui-vẻ, thành-thực, cởi mở thoải-mái, một sự thoải mái
tự-nhiên không hề bó-buộc vẫn là đặc-điểm nổi bật nhất trong tình yêu giáo-dục
của Ngài. Ngài đã sống câu châm-ngôn sau đây, dựa theo lời thánh Phao-lô: "Một
vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn" (Un saint triste est un triste
saint).
Và Ngài đã nên thánh. Ngài được phong thánh năm
1934, sau khi sống một cuộc đời luôn luôn bận-bịu lo-lắng cho các em thiếu-nhi
và sáng lập ra tu-hội Sa-lê-giêng để tôn-kính thánh Phan-xi-cô Sa-lê-gi-ô. Cũng
như vị thánh này, Ngài đã tìm được sức sống cho đời mình qua tình yêu thương con
người và qua Tin Mừng của Đức Kitô, ở đó Ngài khám phá ra dung-mạo một
Thiên-Chúa có thể chia sẻ mọi yếu-hèn của chúng ta.
Ngay cả đến cuối đời, sau khi được Ðức Thánh
Cha tiếp-kiến, trong các cuộc hành-trình khắp năm châu bốn bể để kiếm tiền in
những tác-phẩm Ngài viết, Ngài cũng rất gần-gũi các trẻ em vất-vưởng của mình.
Lúc nhắm mắt lìa đời, rạng sáng ngày 31 tháng giêng năm 1888, Ngài nói với các
tu-sĩ Sa-lê-giêng đang săn-sóc Ngài rằng:
"Hãy làm tốt cho mọi người,
đừng gây điều xấu cho ai cả!
Hãy nói với các bạn trẻ của Cha rằng:
Cha đợi họ trên Thiên-Đàng!
Biển-Đức
Đỗ Quang-Vinh (chuyển-ngữ)