(Bản dịch của Ủy Ban
Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN)
LTS. Để góp phần hỗ trợ cho việc "Đọc,
Học và Sống tinh thần Vatican II", đặc biệt trong Năm Đức Tin
này, Đặc San GSVN tiếp tục cho đăng tải liên tục như trong suốt
hơn 8 năm qua, toàn bộ tài liệu của Thánh Công Đồng Chung
Vatican II. Hôm nay xin mở đầu bằng bản văn quan trọng nhất và
là Bản dịch chính thức của HĐGMVN: HIẾN CHẾ TÍN LÝ
VỀ MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA (Dei Verbum) .
KHOÁ VIII
ngày 18 tháng 11 năm 1965
HIẾN CHẾ TÍN LÝ
VỀ MẠC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA (Dei Verbum)
Lời giới thiệu
I. Lịch sử bản văn
Hiến chế này là một trong những văn kiện quan trọng nhất của Công đồng
Vatican II về phương diện giáo thuyết cũng như về thái độ khác biệt giữa các
Nghị Phụ: thật vậy, chính trong khi bàn cãi về lược đồ này, các Nghị Phụ đã
nhận thức về sự phân chia khuynh hướng thần học giữa các ngài. Lược đồ về
Mạc khải nằm ở ngoài quyển sách đã được Uỷ ban Trung ương xuất bản năm
1962. Và như vậy người ta tưởng sẽ được bàn cãi trước tiên. Nhưng Đức
Gioan XXIII nhận thấy đã có những bất đồng ý kiến trong bản văn “về Mạc khải”,
nên ngài không muốn khởi đầu Công đồng với bản văn gai góc này, và đã quyết
định bàn cãi về Phụng vụ trước tiên vì các nghị phụ dễ đồng ý về vấn đề này
hơn.
Bản văn trình bày trong sách trên thật ra là bản văn thứ năm mà Uỷ ban
và các Nghị Phụ đã soạn thảo. Ngày 12-7-1962, Đức Gioan XXIII truyền lệnh gửi
cho các Nghị Phụ bàn cãi loạt Lược đồ lần thứ nhất. Trong số đó có Lược đồ
Hiến chế Tín lý về các nguồn Mạc khải. Lược đồ này sẽ được bàn cãi từ ngày 14
đến 21 tháng 11 năm 1962. Chính trong các cuộc bàn cãi này mà Công đồng
Vatican II đã tự chia ra phe “đa số” và “thiểu số” theo luồng tư tưởng và theo
lối
diễn tả thần học của các Nghị Phụ. Từ đó các khuynh hướng khác biệt này chi
phối tất cả các công việc của Công đồng.
Trong diễn văn khai mạc ngày 11-10, Đức Giáo hoàng đã nói: “Bản chất
của giáo thuyết cổ truyền chứa trong kho tàng đức tin là một chuyện, còn việc
định thức bản chất lại là chuyện khác, vì việc định thức căn cứ trên những hình
thức và sự tương xứng với những nhu cầu giáo huấn, nhất là về mục vụ”. Sự
phân biệt giữa “bản chất” và “định thức” sẽ giữ một vai trò quan trọng trong
cuộc
bàn cãi lược đồ này. Lược đồ đã được các Đức Hồng Y Ottaviani, Ruffini, Siri,
v.v... bênh vực và bị các Đức Hồng Y Liénart, Frings... kết án, còn các Đức
Hồng
Y Bea, Léger, Tisserant... thì chỉ trích. Người ta cho rằng cách nói quá kinh
viện,
lối hành văn phản mục vụ, phản kinh thánh và phản hiêp nhất. Chủ tịch đoàn
Công đồng quyết định bỏ thăm bản văn (20-11-1962) và bản văn bị loại bỏ với
1.368 phiếu chống, 822 phiếu thuận và 18 phiếu bất hợp lệ. Buổi họp trải qua vài
giờ lộn xộn vì chưa đủ đa số 2/3 để loại bỏ một lược đồ (cần phải 1.473 phiếu
mới đủ 2/3). Nhưng có nên chấp nhận một lược đồ bị một đa số như trên loại bỏ
không? Khi ấy Đức Giáo hoàng XXIII đích thân can thiệp: ngài quyết định trao trả
lược đồ cho một Uỷ ban hỗn hợp do ngài chỉ định gồm 7 Hồng Y với các thành
phẩn của Uỷ ban Thần học và của Văn phòng Hiệp nhất Kitô giáo.
Uỷ ban này khởi công bằng việc đồng ý về nhiểu điểm quan trọng như bỏ
tựa đề “về hai nguồn...” (vì nó sẽ gây ra nhiều hiểu lầm), và đặt tựa đề cho
chương I: “Về Lời Chúa được mạc khải...” (như thế nó tổng quát và dễ dàng
chấp nhận hơn). Tuy nhiên vẫn còn những bất đồng, nhất là về tương quan giữa
Thánh Kinh và Thánh Truyền. Lược đồ được hoàn thành vào tháng 3-1963 và
được gửi cho các Nghị Phụ vào tháng 5. Bản văn sẽ không được bàn cãi trong
kỳ họp thứ hai, nhưng vẫn không thiếu những phê bình được gửi tới. Thật vậy,
các vị soạn thảo muốn “cố ý tránh vấn đề hai nguồn Mạc khải mà không xác
nhận hay chối bỏ rằng Thánh Truyền chứa những gì mà Thánh Kinh không có”
(Relatio..., tr. 5). Điều đó làm cho bản văn trở nên lạt lẽo, thiếu màu sắc và
hàm
hồ... Mạc khải được hiểu như là “nội dung” của Mạc khải hơn là hành động Chúa
mạc khải. Thánh Truyền duy nhất bị lẫn lộn với các truyền thống, điều này gây
nhiều hiểu lầm v.v...
Đến ngày 31-1-1964, các nghị phụ hết hạn gửi các nhận xét. Như thế
người ta có thể lợi dụng được các ý kiến trong những cuộc bàn cãi đang diễn ra
“về Lược đồ Giáo Hội” vì Mạc khải và Giáo Hội không thể tách rời nhau.
Những lời than phiền của các Nghị Phụ hầu như chỉ quy về hai điểm: các bản
văn chưa đánh giá đầy đủ tầm quan trọng của Mạc khải và của Thánh Truyền,
cũng như chưa được cân nhắc đầy đủ. Ngày 7 tháng 3, người ta thành lập một
tiểu ban phụ trách tu chỉnh bản văn đưới sự chủ toạ của Đức giám mục Charue
với sự cộng tác của nhiều chuyên viên. Uỷ ban này chia làm hai nhóm: nhóm thứ
nhất phụ trách chương I và II (chủ tịch: Đức giám mục Florit và các chuyên viên
Congar, Rahner, Moeller, Ramirez, v.v...) và nhóm thứ hai phụ trách từ chương
III đến VI (chủ tịch là Đức giám mục Charue và các chuyên viên: Cerfaux,
Grillmeier, Rigaux, Turrado, Semmonelroth, v.v...). Từ 20 đến 24 tháng 4 năm
1964, các ngài bổ túc bản văn mới và đưa ra bản tối hậu. Sau đó bản văn được
trình lên Văn phòng Hiệp nhất để xem có phải sửa đổi gì không. Ngày 30-6-1964, Văn phòng trả lời chấp thuận; Đức Hồng Y Bea xét rằng không cần phải
hợp hai cơ quan để tu chỉnh. Sau đó, Uỷ ban Giáo thuyết cứu xét bản văn (từ
ngày 3 đến 5 tháng 6). Chương II tạm được chấp nhận (17 phiếu thuận và 7
chống) vì 7 nghị phụ đòi phải nói: Thánh Truyền khách quan rộng hơn Thánh
Kinh (x. Relatio... tr. 6).
Cuộc bàn cãi bản văn bắt đầu ngày 30-9 tại đền Thánh Phêrô. Có hai bản
phúc trình: một của nhóm đa số trong Uỷ ban (Đức giám mục Florit đọc),
và một của nhóm thiều số (Đức giám mục Franic trình bày). Vấn nạn quan trọng
nhất do nhóm thiểu số đưa ra là ý tưởng về “Thánh Truyền cấu thành” (Traditio
constitutiva). Đó là giảng thuyết và đức tin của toàn thể Giáo Hội tông đồ, dưới
sự tác động của Thánh Thần mạc khải, chứa đựng những chân lý thật ra không
có trong Thánh Kinh. Đó là trường hợp các tín điều về Đức Mẹ (Đức giám mục
Beras). Ngoài ra nếu hạ giá Thánh Truyền, như Lược đồ đã làm, người ta sẽ rơi
vào một thứ Tân Thời Thuyết. Tuy thế, đa số chấp nhận và khen ngợi ý tưởng
của bản văn. Dầu vậy, những phê bình của nhóm thiểu số cũng rất hữu ích vì nó
xác định rõ ràng nhiều ý niệm.
Theo Uỷ ban, kết quả cuộc can thiệp của các nghị phụ như sau:
1) Điểm tích cực:
a. Ngôn ngữ rõ ràng, cẩn thận và có tính cách trình bày.
b. Cơ cấu bản văn được sắp đặt kỹ lưỡng và cân đối.
c. Giáo thuyết chắc chắn phát xuất từ Cổ Truyền và Thánh Kinh.
d. Quan niệm Mạc khải quy về Chúa Kitô và con người cũng như cách thức
trình bày tương quan giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền.
2) Điểm tiêu cực:
a. Cách hành văn phức tạp và đôi khi tối nghĩa.
b. Im lặng trước những sai lạc và lạm dụng hiện có.
c. Trình bày khiếm khuyết về Cựu Ước.
d. Thiếu chiều hướng Giáo Hội trong Mạc khải.
e. Phải trình bày vai trò của Chúa Thánh Thần trong hoạt động của Huấn
quyền Giáo Hội.
Các tiểu ban bắt tay làm việc để tổng hợp đề nghị của các Nghị Phụ. Nhờ
đó một bản văn thứ tư được thành hình và đã được gửi tới cho các Nghị Phụ
trong phiên họp khoáng đại cuối cùng của kỳ họp thứ ba (20-11-1964). Có thể
tóm tắt các thay đổi chính như sau:
a. Nhấn mạnh đến truyền thống “phát nguyên từ các tông đồ” thay vì Thánh
Truyền “sống” (có thể chỉ phát xuất từ đời sống Giáo Hội).
b. Vấn đề phát triển tín lý, bản văn trước nói rằng kinh nghiệm của các tín
hữu là một yếu tố phát triển, nhưng bản văn mới nhắc thêm đến lý trí (số
8b) để tránh chủ quan thuyết hiện tượng luận.
c. Nhắc đến việc nhờ Thánh Thần mà Giáo Hội biết được bản chính lục
Thánh Kinh (số 8c).
d. Phân biệt rõ ràng hơn nội dung của Thánh Truyền thời các tông đồ và thời
hậu tông đồ (số 9).
e. Xác định vai trò của Huấn quyền bằng cách bãi bỏ danh từ uy quyền “tối
thượng” và không nhắc đến ơn bất khả ngộ, và hơn nữa còn nói rằng
quyền giáo huấn phải “thành kính lắng nghe” Lời Chúa (số 10). Trong kỳ
họp thứ ba, các Nghị Phụ không bỏ phiếu bản văn này, nên các ngài có
thể viết các nhận xét gửi về Uỷ ban.
Sau cùng, ngày 21 và 22 tháng 9 -1965, các Nghị Phụ đã bỏ phiếu Lược
đồ này. Các chương đều được chấp thuận với vài sửa đổi. Uỷ ban phụ trách kết
nạp các đề nghị tu chỉnh, cố gắng dung hoà ý kiến mọi người bằng cách sửa đổi
từng tiểu tiết của bản văn. Chính Đức Giáo hoàng cũng đã đề nghị một vài thay
đổi. Sau khi Uỷ ban Giáo thuyết xem xét, bản văn được phát cho các nghị phụ
ngày 25-10-1965 và bỏ phiếu ngày 29. Ở vòng bỏ phiếu chót, trong số 2.115
nghị phụ bỏ phiếu, có 2.081 phiếu thuận, 27 phiếu chống và 7 phiếu bất hợp lệ.
Ngày 18-11 là ngày công bố với 2.344 phiếu thuận và 6 phiếu chống.
II. Cơ cấu hiến chế
Những nét chính của bản sơ thảo đầu tiên được giữ lại đến cùng: một
phần nói về Mạc khải tổng quát, một phần dành cho Thánh Kinh. Lược đồ thứ
nhất được chia như sau: chương I: Hai nguồn Mạc khải; chương II: Linh hứng;
bất ngộ và cấu tạo văn chương của Thánh Kinh; chương III: Cựu Ước; chương
IV: Tân Ước; chương V: Thánh Kinh trong Giáo Hội.
Như trong Lược đồ thứ nhất, Lược đồ thứ hai giữ lại chương I như một lời
mở đầu giới thiệu Thánh Kinh; các chương khác cũng chứa đựng chất liệu
tương tự như Lược đồ thứ nhất. Chính trong lần soạn thảo thứ ba mà giáo
thuyết về Mạc khải chiếm vai trò ưu thắng. Như vậy, phần thứ nhất của bản văn
trở thành quan trọng nhất, vì chứa đựng giáo thuyết “chi phối” mọi việc khai
triển
khác. Nội dung của lược đồ thứ ba là: chương I: Về chính Mạc khải; chương II:
Sự lưu truyền Mạc khải; chương III: Linh hứng của Thiên Chúa và việc chú giải
Thánh Kinh; chương IV: Cựu Ước; chương V: Tân Ước; chương VI: Thánh Kinh
trong đời sống Giáo Hội.
Như thế, chúng ta có một bản văn chia làm hai phần lớn, được soạn thảo
dưới sự hướng dẫn của hai tiểu ban. Phần nhất bàn về Mạc khải tổng quát, gồm
hai chương: chương I bàn về diễn tiến Mạc khải mà Thiên Chúa đã tự biểu lộ
cho con người và phó mình cho họ, đến mức độ trọn vẹn trong Chúa Kitô;
chương II trình bày tính cách liên tục trong việc Thiên Chúa tự biểu lộ và phó
mình cách trọn vẹn trong Giáo Hội bằng tất cả những gì tạo thành đời sống Giáo
Hội, qua tiến trình lịch sử.
Phần hai bàn về Thánh Kinh, một hình thức đặc biệt của sự biểu lộ và phó
mình của Thiên Chúa: Chương III trình bày những khía cạnh tổng quát của
Thánh Kinh: đó là một tác phẩm của Thiên Chúa, Đấng hạ mình đến với chúng
ta, nhưng cũng là một tác phẩm của con người; chương IV bàn về giá trị của
Cựu Ước; chương V bàn về Tân Ước; sau cùng chương VI trình bày ý nghĩa
của Thánh Kinh đối với Giáo Hội mọi thời đại và mọi hoàn cảnh.
III. Tầm quan trọng
Hiến chế Mạc khải đã không giải quyết mọi vấn đề, đã không có thái độ rõ
ràng về nhiều vấn đề, và không làm thoả mãn mỗi người. Hiến chế không thể
làm điều đó. Dầu vậy Hiến chế cũng nói lên một bước tiến rất tích cực trong
công cuộc tìm hiểu Mạc khải cũng sẽ có một tầm ảnh hưởng lớn lao trong nền
Thần học Công giáo và cuộc đối thoại hiệp nhất.
Công đồng tiến hành công việc trong nỗ lực hoà giải. Hiến chế Mạc khải
đã phải tổng hợp nhãn quan của nhiều trường phái không luôn luôn phù hợp
nhau, và phải tóm lược các ý tưởng (dù làm như vậy có vẻ đơn giản hóa vấn
đề). Bản văn phải được nghiên cứu cẩn thận chứ không chỉ đọc thoáng qua. Tuy
nhiên, không được vì thế mà lãng quên tâm điểm của toàn thể giáo thuyết, tâm
điểm đó chính là tác động cứu độ của Thiên Chúa đang diễn tiến trên thế gian và
trong lịch sử nhờ Lời của Ngài là Chúa Kitô.
Cũng nên chú ý là bản văn sau cùng đã được đại đa số trong Công đồng
chấp thuận, như thế bản văn nói lên đức tin của Giáo Hội về vấn đề này. Dầu
không đồng tâm về những chi tiết, nhưng phần giáo thuyết căn bản thì không ai
có thể bàn cãi được nữa.
Người ta có thể lấy làm tiếc là Thánh Truyền và Huấn quyền lại đứng bên
cạnh Thánh Kinh. Nhưng như thế là vì đã có thành kiến luôn đối chiếu ba thực
thể trên. Trong khi đó Công đồng đã quan niệm và thành công trong việc dung
hoà: cả ba đều mang Lời Chúa, tuy mỗi thực thể theo một cách thức riêng và với
một tước vị riêng.
Bản văn này phải thúc đẩy các nhà thông thái nghiên cứu Thánh Kinh và
giúp tín hữu say mê Thánh Kinh. Theo đường hướng cởi mở của Thông điệp
Divino afflante Spiritu, Hiến chế về Mạc khải mở những chân trời mới cho
công việc chú giải. Người ta được tự do nghiên cứu để khai thác các “văn loại”
và các khám phá mà lịch sử và khoa học đem lại, mà không sợ những cấm đoán
đè nặng từ bên ngoài như trường hợp các đồng nghiệp của họ thời trước.
Nhưng cùng một lúc Hiến chế cũng xác định những điều ta không thể chối bỏ mà
không triệt tiêu Mạc khải. Do đó, không được nghi ngờ lịch sử tính của các Phúc
Âm và nguồn gốc tông đồ của các sách đó. Công đồng đã không kết án phương
pháp văn hình sử (Formgeschichte) nhưng đã nêu ra những giới hạn của
phương pháp ấy; không phải tất cả những ý tưởng “giải huyền thoại” của R.
Bultmann là sai nhưng phải cẩn thận để khỏi rơi vào thuyết duy tín mà phương
pháp này đưa đến. Còn về tầm quan trọng thực tế của những lời
khuyên mục vụ
ở chương VI thì chỉ có tương lai mới có thể trả lời chúng ta.
Việc xác định chân lý Thánh Kinh ở số 11 là một điều rất quan trọng.
Người ta không thể tìm thấy trong Thánh Kinh bất cứ loại chân lý nào (khoa học,
lịch sử, địa lý, dân chủng học, v.v...) nhưng chỉ có thứ chân lý cứu thoát
chúng
ta, và ta cũng nên lưu ý Công đồng không nói những chân lý nhưng nói chân lý
ở số ít: chân lý ấy đồng thời cũng là sự sống, là đường dẫn đến sự cứu độ. Điều
đó muốn nói rằng chân lý của chúng ta không phải chỉ là một điều ta biết suông,
nhưng là một bổn phận phải thực hành: “thực hành chân lý” (x. Ep 4,15) và phải
tiến tới trong chân lý: “đi trong chân lý”. Công đồng muốn giải phóng thần học
khỏi quan niệm Hy-lạp về chân lý quá tĩnh để trở về với ý niệm Do-thái linh động
hơn, hiện sinh hơn, cởi mở hơn đối với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Một số người công kích, số khác lại ca tụng về tầm quan trọng hiệp nhất
của Hiến chế về Mạc khải. Người ta đã chỉ trích sự hàm hồ về mối tương quan
giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền. Nhưng có người lại thấy ở đó một cánh cửa
đưa đến đối thoại, nhất là vào thời đại các Giáo Hội phát sinh sau khi Phong trào
Cải cách đặt lại vấn đề Thánh Truyền. Việc tự do tìm hiểu đã chiếm được một
địa vị, nhờ đó sự cộng tác giữa các nhà chú giải Công giáo và Tin lành càng dễ
dàng và đáng khích lệ hơn. Ngoài ra, việc khuyến khích đọc Thánh Kinh đã tạo
nên một nền tảng vững chắc đưa các Kitô hữu xích lại gần nhau hơn, vì họ cùng
lắng nghe một Lời Chúa. Dù bản chính lục Thánh Kinh vẫn còn đôi chút khác
biệt, nhưng sự kiện này không có tầm quan trọng thực tiễn nào.
PHAOLÔ GIÁM MỤC
TÔI TỚ CÁC TÔI TỚ THIÊN CHÚA
HỢP NHẤT VỚI CÁC NGHỊ PHỤ CỦA THÁNH CÔNG ĐỒNG
ĐỂ MUÔN ĐỜI GHI NHỚ
(còn tiếp nhiều kỳ)
|