Lịch Sử Thần
Học Chúa Ba Ngôi
I.
Giới Thiệu:
“Nhân danh
Cha, và Con và Thánh Thần”
“Ðức tin công giáo hệ tại điều này: thờ kính Một Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi
Một Chúa mà không lẫn lộn giữa các Ngôi Vị, không chia cắt bản thể: vì Ngôi
Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần khác biệt nhau; nhưng Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần có cùng một thiên tính, một vinh quang, một uy quyền vĩnh cửu”
(Giáo lý Công Giáo, số 266).
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là nền tảng
căn bản đức tin Kitô giáo. Tất cả mọi tín lý đều từ đó mà ra, và tất cả rồi sẽ quy
tụ về mầu nhiệm căn bản này.
Chúng ta tuyên xưng “Tôi Tin Một Chúa, Ba Ngôi, Đồng Bản Thể v.v….”
như trong Kinh Tin Kính ta đọc hằng tuần, nhưng tín điều này hình thành thế nào?
Và được Kitô hữu đón nhận thế nào?
Chú Thích: Vì nội dung tín điều này tự nó
khó hiểu, và bối cảnh lịch sử cũng quá phức tạp, tôi sẽ cố gắng tóm tắt những
điểm quan trọng và giải thích những gì cần giải thích. Bài đầu tiên nói đến
hoàn cảnh lịch sử từ thời khai sinh Giáo hội đến công đồng Nicea năm 325. Bài
kế tiếp nói đến những tranh cãi dẫn đến công đồng Constantinople năm 381 trở về
sau.
Điều quan trọng nữa là trước khi vào bài viết, tôi xin phân
biệt danh từ mà người Việt chúng ta thường bị lầm lẫn khi dùng danh xưng “Thiên
Chúa” và “Chúa” trong lời cầu nguyện hay trong câu chuyện hằng ngày.
Khi nói đến Thiên Chúa (Deus/ God/ Dieu/Dios), chúng ta nói
đến Một Thiên Chúa Đấng làm chủ muôn loài, muôn vật. Từ này được dịch từ Elohim
(Do thái) và Theos (Hi Lạp). Còn khi ta dùng từ “Chúa” (Dominus/ Lord/ Seigneur/Senor)
như “Chúa
Giêsu Kitô” là dịch từ Adonai (Do thái) hay Kurios
(Hy Lạp). Từ này có nghĩa là: một ông/bà
chủ/ một bậc thầy/ một bậc chúa (như ta nói đến chúa Trịnh, chúa Nguyễn
trong lịch sử nước ta.)
Người Do thái không dám kêu tên Thiên Chúa (Giavê), nên họ
dùng từ Adonai/Chúa chỉ chức vị mà nói đến Thiên Chúa. Vì thế, trong
bài viết, cần phân biệt rằng khi thánh Phaolo viết: Chúa Giêsu Kitô (Lord Jesus
Christ/ Dominus Iesus Christus), Ngài không có ý tuyên dương Chúa Giêsu
là Thiên Chúa, mà chỉ nói lên một ngôi vị được kính trọng mà thôi. Dĩ nhiên
ngày nay chúng ta tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng niềm
tin này không hẳn có ngay từ đầu với các Kitô hữu sơ khai, kể cả các tông đồ,
mà có thời gian dài để chính niềm tin này được thử thách và tôi luyện trước khi
được Giáo Hội công nhận.
II.
Bối Cảnh Sau Khi Chúa Giêsu Sống Lại và Lên Trời
Vậy những Kitô hữu đầu tiên nghĩ Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi
Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ: “người
ta gọi Con người là ai?... và các con gọi Ta là ai?” được Phêrô trả lời nói
lên cái nhìn của Kitô hữu đối với Chúa Giêsu trong thời kỳ đầu Giáo Hội “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mat 16:16)
Nói cách khác, những Kitô hữu đầu tiên tin Đức Giêsu được
Thiên Chúa sai đến, tin rằng Ngài có những căn tính và phẩm chất vượt trên con
người và cả thiên thần, tin rằng Thiên Chúa ưu đãi và ngay cả chọn Đức Giêsu để
mặc khải ý định Thiên Chúa cho con người. Tuy vậy, họ chưa dám tin Đức Giêsu
Kitô là Thiên Chúa vì họ tin chỉ có Một Thiên Chúa mà thôi. Nếu tin Đức Giêsu
là Thiên Chúa, liệu họ có bị lạc giáo vì tin có Hai Thiên Chúa không?
Các tông đồ và những Kitô hữu đầu tiên là những tín đồ Do
Thái giáo, họ tiếp xúc với Cựu Ước và luật Môisê, và họ tin chỉ có Một Thiên
Chúa là Vua của mọi loài tạo vật. Dù đi theo Đức Giêsu Kitô, họ tiếp tục xây
dựng đức tin mình dựa trên cơ sở Độc Thần (monotheism) mà Thiên Chúa trong Cựu Ước đã nhiều lần cảnh cáo và ngay cả
trừng phạt khi dân Israel bỏ Yahweh đi thờ tà thần: “Chúng tôi biết rằng…. chỉ có một Thiên Chúa và không ai khác” (xem
Exod 20:3; Isa 45:5; 1 Cor 8:4; Acts 17:24-29). Hơn nữa, họ biết rằng
chính Chúa Giêsu cũng thờ phượng và cầu nguyện cùng Thiên Chúa Giavê, cũng giữ
luật (như rửa tay, ngày Sabat…) và mừng các lễ (Vượt Qua…) theo phép Đạo Do
Thái.
Dù thánh Phaolô rao giảng nhiều về tin mừng và con người
Chúa Giêsu, Ngài không bao giờ tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa (Deus), mà
chỉ nói đến là Chúa (Kyrios) mà thôi. Trong ba tin mừng Nhất Lãm (Matthêu,
Macô, Luca) cũng không hề nói đến Chúa Giêsu là Thiên Chúa,
mà chỉ nói Ngài là “Con Thiên Chúa” mà thôi.
Chỉ có phần cuối tin mừng Gioan có lời tuyên xưng của Tôma khi Chúa Giêsu hiện
ra với các ông sau khi Ngài sống lại và cho phép ông xỏ tay vào dấu đanh, ông đáp:
“Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của
con!”(Jn
20:28). Các nhà Kinh thánh tin rằng vào cuối thế kỷ đầu tiên (tin mừng Gioan được
viết trong thời gian này), cộng đoàn Kitô hữu bắt đầu tuyên xưng “Chúa Giêsu là Thiên Chúa” trong những
nghi thức phụng vụ. Dù tuyên xưng như thế, nhưng việc hiểu nội dung của lời tuyên
xưng cần nhiều thời gian để tìm hiểu và tranh luận.
Vậy đầu thế kỷ
thứ 2, Giáo Hội đã công nhận Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa chưa? Đã có những
giáo huấn rõ rệt về căn tính và con người Đức Giêsu chưa? Câu trả lời sẽ không
rõ ràng và dễ dàng như ta nghĩ.
III.
Những Tuyên Xưng Đức Tin Thửa Ban Đầu
Ta nhận ra cảm nghiệm của Kitô hữu với Thiên Chúa Ba Ngôi
khi đọc thấy những lời tuyên xưng đức tin trong đời sống phụng vụ của họ.
Thánh Phaolô viết: “Xin
Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và
bình an.”(Gal 1:3)
Với dân Thessalonica: “Xin chính Thiên
Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa chúng ta là Đức Giêsu san phẳng con đường dẫn
chúng tôi đến với anh em.” (1Thes
3:11).
Trong thư gởi Êphêsô: “Chỉ có một thân
thể, một Thần Khí… một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa,
Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.”
(Eph 4:4-6).
Và “Có nhiều đặc sủng
khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ
có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm
mọi sự trong mọi người.” (1 Cor 12:4-6).
Và khi Phêrô nói với dân trong ngày lễ Ngũ Tuần: “Vậy
toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên
thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.” (Acts 2:36).
Thư gởi tín hữu Do Thái nói: “Thuở xưa, nhiều lần
nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào
thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã
nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn
loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên
Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Heb 1:1-3). Đây là lời tuyên xưng Đức Kitô được Thiên Chúa
chọn lựa để rao giảng ý định Thiên Chúa.
Rõ nhất và ngắn nhất là công thức trong phụng vụ mà ta vẫn
dùng ngày nay: “Cầu chúc toàn thể
anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Ki-tô, đầy tình thương của Thiên
Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. Amen”
(2 Cor 13:13).
IV.
Các Giáo
Phụ Sau Thời Các Tông Đồ
Dù tin chỉ có Một Thiên Chúa (độc thần), nhưng các giáo phụ
(khoảng năm 90–140) bắt đầu tìm cách cắt nghĩa về những câu hỏi nhắm đến Chúa
Giêsu Kitô: Ngài là ai? Là Thiên Chúa hay con người? Hay cả hai?
Để cắt nghĩa những câu hỏi này, các giáo phụ bắt đầu tìm
hiểu về nhân tính và thiên tính của Đức Giêsu Kitô.
Từ đầu thế kỷ 2, nhiều thần học gia thuộc nhóm Hộ Giáo (apologia) bắt đầu cắt nghĩa thần học để
giải đáp những thắc mắc của Kitô hữu.
Đọc tin mừng Gioan, ta thấy: “Lúc
khởi đầu đã có Logos (Ngôi Lời). Logos (Ngôi Lời) vẫn hướng về Thiên Chúa, và
Logos (Ngôi Lời) là Thiên Chúa.” (Jn 1:1).
Justin Martyr (khoảng năm 100-165), và học trò là Tatian
(110-180), ông Theophilus thành Antiokia (chết khoảng 180-185), Athenagoras
(cuối thế kỷ 2), và nhiều người khác đã khai thác triết học Hi Lạp đương thời
để cắt nghĩa thần học Kitô giáo. Họ là nhóm đầu tiên được xem là những thần học
gia cắt nghĩa Chúa Ba Ngôi cách có hệ thống.
Theo nhóm này,
Logos của Thiên Chúa và Thần Khí của Ngài
xuất hiện cách kín đáo trong Cựu Ước.
Khi đọc sách Châm Ngôn, Justin cho là Thiên Chúa sai Ngôi Lời đến với mục đích
tạo dựng vũ trụ: “ĐỨC CHÚA đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay
của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất.” (Châm ngôn 8:22).
Chính Logos này giờ đây xuống thế làm người, như được trình
bày trong tin mừng Gioan. Nhưng so sánh với Chúa Cha, Justin cho là Logos đứng “hạng
hai” và Thần Khí thì “hạng ba”. Nghĩa là chỉ có Một Thiên Chúa, còn Logos và
Thần Khí không đồng hạng được.
Nói tóm, Justin và những giáo phụ đầu tiên này tìm cách cắt
nghĩa Logos trong chức năng tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa, nhưng luôn
giữ vững lý luận rằng Chúa Cha là nguồn gốc, là khởi đầu mọi sự.
Một người khác có công đóng góp rất nhiều cho thần học Chúa
Ba Ngôi thời sơ khai là Tertullian (150–225). Ông là người đầu tiên dùng danh
từ Chúa Ba Ngôi (Latin: trinitas), và những danh từ “bản
thể -substantia , ngôi vị- persona” khi cắt nghĩa mầu nhiệm này. Chính
ông là người đầu tiên nhấn mạnh rằng Ba Ngôi cùng Bản Thể (Latin: una
substantia et tres personae). Nhưng để cắt nghĩa thế nào mà Ba Ngôi chỉ
có Một Thiên Chúa, Tertullian cho là mầu nhiệm này hiện hữu với mục đích mặc
khải cho con người mà thôi, nghĩa là, vì mục đích tạo dựng và cứu chuộc nên Ba
Ngôi đã tỏ cho loài người biết như mình đang tìm hiểu.
Ông phân biệt Nội tại và Nhiệm cục trong Ba Ngôi. “Nội
tại- theologia” là sự sống, hoạt động, bản thể, căn tính v.v… của Ba
Ngôi mà loài người hoàn toàn không thể nào biết được. “Nhiệm cục- Oikonomia” là
những gì Ba Ngôi tỏ ra cho con người hiểu như Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con xuống
thế cứu chuộc, Chúa Thánh Thần thánh hoá con người v.v… Rồi đây, theo ông, cuối
cùng thì Nhiệm cục- Oikonomia sẽ chấm dứt để trở lại Nội
tại- theologia của Một Thiên Chúa mà thôi.
Với căn bản thần học của những giáo phụ trên đây (và còn rất
nhiều những tư tưởng của các vị đương thời), một số những thần học gia đã có
những cắt nghiã sai lạc trong khi tìm hiểu, đem lại những lạc thuyết trong Giáo
Hội. Chúng ta cần biết một vài lạc thuyết căn bản để hiểu Mầu Nhiệm Chúa Ba
Ngôi.
Vì là con người, nếu chúng ta không đủ khả năng để hiểu Mầu
Nhiệm Chúa Ba Ngôi là GÌ, thì ít nhất, qua các lạc thuyết bị lên án, chúng ta
hiểu được Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi KHÔNG là GÌ.
Để tìm cách giữ vững tín điều chỉ có Một Thiên Chúa, một vài
những lạc thuyết phổ biến lúc bấy giờ:
Thuyết Phụ
Thuộc (hay Thứ Vị Luận - subordinationism):
cho là Chúa Con và Chúa Thánh Thần phụ thuộc và Chúa Cha cả bản tính và sự hiện
hữu. Nghĩa là, về phẩm trật, Chúa Cha trên Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Về hoạt
động hay hiện hữu, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hoàn toàn lệ thuộc vào Cha. Thuyết
này từ chối Ba Ngôi bằng nhau.
Thuyết Nhất
Ngôi Nhất Thể Luận (Monarchianism) cho rằng chỉ cỏ một Thiên Chúa, một Bản Thể,
một Ngôi vị không chia sẻ cho ai (tiếng
Hi lạp: monos = một; archein = cai quản, thống trị).
Lạc thuyết này rõ ràng từ chối thiên tính trong Chúa Giêsu, vì theo họ, Thiên
Chúa không chia sẻ với ai. Họ cũng lý luận: nếu ai công nhận Đức Giêsu là Thiên
Chúa, thì khi Đức Giêsu chết trên thánh giá, Thiên Chúa cũng phải đau khổ và
chết. Những người theo nhóm này có có tên là Patripassionism, nghiã là “Chúa
Cha Chịu Đau Khổ” (Patri- Cha;
passion-đau khổ)
Thuyết Thừa Tự (Adoptionism) cho rằng Đức Giêsu Kitô tự bản chất không là Thiên Chúa,
nhưng được Thiên Chúa tạo dựng, và cho làm con Thiên Chúa, nghĩa là được chọn làm
thừa tự. Chủ thuyết này căn cứ vào tin mừng khi Chúa Giêsu chịu phép rửa và
được Thiên Chúa Cha công nhận: “Con là
con yêu dấu Cha, Cha hài long về con” (Mk 1:9). Lạc thuyết này từ chối Chúa
Giêsu LÀ Thiên Chúa từ đời đời, vì Ngài chỉ TRỞ NÊN Thiên Chúa khi
Chúa Cha cho phép mà thôi..
Thuyết Hình Thái Luận hay Mô Thức Luận
(Modalism) cho là chỉ có Một Thiên Chúa nhưng Ngài có 3 bộ mặt hay hình
thức biến thái khác nhau. Từ khởi đầu, Thiên Chúa Cha là đấng tạo dựng vũ trụ.
Qua mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa mang hình hài Chúa Con. Sau khi lên trời,
Thiên Chúa mang hình dạng Chúa Thánh Thần. Đây có thể là lạc thuyết phổ biến
nhất lúc bấy giờ. Thuyết này từ chối Ba Ngôi Vị riêng biệt.
VI.
Arius và
Những Tranh Cãi Thần Học Chúa Ba Ngôi
Nếu chỉ có một Thiên Chúa, vậy Đức Giêsu Kitô là ai? Là con
người hay Thiên Chúa? Rồi Chúa Thánh Thần là ai?
Tất cả những câu hỏi này khởi đầu cho những tranh cãi thần
học, giúp làm sáng tỏ những ngộ nhận và khai thông những hiểu biết về đức tin
Kitô giáo.
Arius là người đóng vai trò quan trọng khi những tranh cãi
thần học xoay quanh lạc thuyết do ông chủ trương, và dĩ nhiên sau này bị Giáo
Hội lên án. Tranh cãi bắt đầu khi Arius, một linh mục ở Alexandria, Ai cập (khoảng
256–336), dạy rằng: Đức Giêsu Kitô là con Thiên Chúa, nhưng Ngài là một tạo
vật, được Thiên Chúa dựng nên và cho làm nghiã tử. Vì thế, ông kết luận: “có một thời kỳ, người con (Đức Giêsu) đã
không có mặt” (ý muốn nói, Chúa Giêsu được tạo dựng, vì thế, trước khi tạo
dựng, Chúa Giêsu đã không có hiện hữu; như vậy, Ngài không có hiện diện từ đời đời).
Ông bị giám mục Alexander của thành Alexandria (chết năm 326),
họp hội đồng giám mục địa phương năm 321 lên án, cấm ông dạy lạc thuyết này, và
ra vạ tuyệt thông cho ông. Arius khiếu nại lên với các giám mục khác, và được
giám mục Eusebius thành Nicomedia ủng hộ. Vì thế, Arius tiếp tục giảng dạy. Hơn
nữa, thuyết của ông hấp dẫn rất nhiều Kitô hữu bấy giờ vì nó
hợp với Kinh thánh , dễ hiểu, bảo vệ được đức tin Độc Thần (Một Chúa), và tránh
Đa Thần (nhiều Chúa).
Người chống đối Arius mạnh mẽ nhất là giám mục Athanasius
(276-373), với lập luận rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa, và Ngài đã có mặt từ đời
đời, không thể nào chấp nhận là “đã có
lúc không có Đức Giêsu.”
Tranh cãi trầm trọng đến độ đem lại chia rẽ trong Giáo Hội,
và đe doạ sự hợp nhất của đế quốc Roma. Đại đế Constantine (280-337) , sau khi
nắm quyền cai trị toàn đế quốc Roma (ở phương Tây) và hợp thức hoá Kitô giáo
(năm 313), ông thấy cần bảo vệ sự hợp nhất trong đế quốc. Dù không quan tâm lắm
đến vấn đề thần học, Constantine triệu tập công đồng chung Nicea (năm 325) với
chừng 300 giám mục (1/6 tổng số bấy giờ) tham dự với hy vọng là nếu Công đồng
chung ra quyết định, tất cả các giám mục buộc phải tuân theo. Như thế, trật tự
xã hội được bảo đảm. Để chắc chắn thành công, đại đế Constantine áp lực và có
khi kỷ luật cho những giám mục không ký vào bản tuyên xưng mới, và có vị còn bị
lưu đày.
Thành phần tham dự Công đồng có ba nhóm: một thiểu số theo
Arius, một thiểu số theo Athanasius, và đa số không thực sự hiểu những phức tạp
của nội dung tranh cãi, nhưng chỉ muốn được bình an.
Khi Công đồng kết thúc, quyết định được đưa ra là lên án Arius,
và khẳng định: “Chúa Con đồng bản thể với Chúa Cha (homoousios), và Chúa Con được sinh
ra nhưng không phải được tạo thành, và Ngài có từ trước đời đời…”
Nên biết rằng những giáo huấn của Công đồng không nhằm mục
đích định nghĩa căn tính của Thiên Chúa, căn tính của Chúa Giêsu Kitô hay giải
thích những căn tính này, nhưng chỉ với mục đích là Tuyên Xưng Đức Tin, nghĩa
là, đây là điều ta bắt buộc phải tuyên xưng, ngay cả khi ta không hiểu.
Những tuyên xưng này không chấm dứt nhưng tranh cãi trong
Giáo Hội về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mà tranh cãi vẫn tiếp tục để làm sáng tỏ
vai trò Chúa Giêsu và vai trò Chúa Thánh Thần trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
trong những Công đồng sau (còn tiếp).
Trong Phúc Âm Matthew, ta đọc được Chúa Giêsu truyền cho các
môn đệ: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần…”
(Mat 28:19). Liệu câu này có phải là
câu khẳng định Chúa Ba Ngôi (Cha-Con-Thánh thần) như ta hiểu ngày nay không?
Các nhà kinh thánh đều đồng ý rằng đây là công thức tuyên xưng đức tin cho
những người gia nhập Giáo Hội thời sơ khai, nhưng nội dung thần học về tín lý
Chúa Ba Ngôi lúc bấy giờ hoàn toàn không như ta hiểu mầu nhiệm Ba Ngôi sau này.
Nghĩa là, lúc đó Kitô hữu chưa hiểu Chúa Cha-Con-Thánh Thần đồng ngôi vị, đồng
bản thể v.v… như Giáo Hội dạy sau này. Ta sẽ nói thêm về nội dung này sau.
Danh xưng “Con Thiên Chúa” được dùng trong Kinh Thánh
không nhất thiết nói lên thiên tính của người được lãnh nhận danh xưng này.
Trong Cựu Ước, từ “Con Thiên Chúa”
đôi khi được dùng để nói đến các thiên thần (Gen 6:2), hay các vị vua (Ps 2:7),
hay những người lành thánh (Wis 2:18), hay dân Israel nói chung (Exod 4:22). Đến
thời Chúa Giêsu, danh xưng này mang thêm tính Mesia và có hàm ý thiên tính.
Trong sách Sáng
Thế kể chuyện có ba nhân vật viếng thăm Abraham ở
Mamre (Gen 18:2). Có phải là Thiên Chúa viếng thăm trong hình hài thiên thần
không? Tư tưởng này cảm hứng cho Andrei Rublev, một tu sĩ Nga, vẽ bức i-con
Chúa Ba Ngôi vào thế kỷ 15. Một nơi khác là câu nói của Thiên Chúa khi tạo dựng
vũ trụ: “Thiên
Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống
như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất
cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." (Gen
1:26). Liệu chủ từ số nhiều “chúng tôi” ở đây có ám chỉ Ba Ngôi Thiên Chúa và
diễn tả căn tính Thiên Chúa hay không?
Xem G. Von Rad,
Old Testament Theology, translated by
D. M. G. Stalker, (New York, 1962-1965) vol. 2: 206.
Arius trích Kinh Thánh để chứng minh là Chúa Con được tạo
dựng bởi Thiên Chúa Cha. Trong John 17:3 “Mà
sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận
biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Kitô.” Trong Col
1:15 “Người con là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là con đầu được sinh
ra trước mọi loài thọ tạo.” và Châm Ngôn 8:22
“ĐỨC CHÚA đã dựng nên ta như tác phẩm đầu
tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất.” Công đồng
Nicea khi lên án Arius đã nói đến bản tuyên xưng đức tin không chỉ dựa vào Kinh
Thánh, mà còn dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần qua Giáo Hội.
Trong bản tuyên xưng này, Công đồng cũng chưa nói nhiều đến
vai trò Chúa Thánh Thần, nhưng những công đồng sau sẽ tiếp tục những gì đã được
mở đầu ở công đồng này.
|