Bệnh loãng xương
http://tintuccaonien.com/docs/docs_6/6_2_357.htm Bệnh loãng xương có thể xẩy ra cho bất cứ ai. Nhưng phần lớn cho những
người lớn tuổi, nhất là đàn bà trên 40 hay 50 tuổi. Khoảng 21 % phụ nữ tắt
đường kinh bị loãng xương. Khi tới 80 tuổi thì có tới 90 % phụ nữ bị bệnh
loãng xương. Đàn ông ít bị bệnh hơn: khi tới 90 tuổi, chỉ có 17 % bị loãng hay
xốp xương.
Trên thế giới, có khoảng 250 triệu người bị
bệnh loãng xương. Riêng tại Hoa Kỳ, 24 triệu người bị loãng xương và mỗi năm,
có một triệu rưỡi người bị gẫy xương. Thực vậy, khi về già, bệnh nhân thường
hay té ngã. Té ngã mà bị bệnh loãng xương thì dễ bị gẫy, bể xương.
Mỗi
năm, khoảng 37 ngàn 500 người bị loãng xương, chết vì những biến chứng khi bị
xương gẫy. Nhất là vì những biến chứng khi phải mổ xẻ, tử vong cao.
Bài dưới đây sẽ giúp quý bạn hiểu rõ hơn vể bệnh loãng xương cũng như
cách chữa trị và phòng ngừa
Bệnh loãng
xương
Bệnh loãng xương (LX)được ví như những tên ăn
cắp vặt, mỗi ngày một chút, chúng lấy dần các khoáng chất quý báu trong ngân
hàng xương của mỗi chúng ta. Lúc đầu, thường không có biểu hiện gì, nhưng khi
có các dấu hiệu rõ ràng, khối lượng xương thường đã mất tới trên 1/3
(35%).
Hậu quả gãy xương do loãng xương thường khá nặng nề
với sức khỏe người có tuổi vì xương đã bị loãng rất lâu liền, người bệnh phải
nằm lâu ngày nên rất dễ bị bội nhiễm (viêm phổi, viêm đường tiết niệu, loét
mục...).
Điều trị loãng xương thường khá tốn kém, đặc biệt
khi đã có các biến chứng nặng nề như gãy xương, gãy lún cột sống... Hiệu quả
nhất, kinh tế nhất là phòng bệnh, phòng bệnh từ khi còn nhỏ, từ khi còn trẻ,
từ các thế hệ trước... để khối lượng khoáng chất đỉnh của bộ xương đạt con số
cao nhất lúc tuổi trưởng thành, đồng thời duy trì một nếp sống và sinh hoạt
lành mạnh, giảm tối đa các yếu tố nguy cơ của
bệnh.
1- Phân
loại
1.1 Tất cả chúng ta, đến lúc có tuổi (trên 65
tuổi) ai cũng bị loãng xương. Đây là hiện tượng loãng xương tiên
phát còn gọi loãng xương người già hay loãng xương loại II, một tất
yếu của quá trình phát triển.Lúc này các tế bào sinh xương (osteoblast) bị lão
hóa, sự hấp thu calci v à vitamin D ở ruột bị hạn chế và có sự suy giảm tất
yếu các hormon sinh dục (nữ và nam).
Loãng xương tiên phát tăng quá trình hủy xương,
giảm quá trình tạo xương. Bệnh thường xuất hiện trễ, diễn biến chậm, tăng từ
từ và ít có những biến chứng nặng nề như gãy xương hay lún xẹp các đốt
sống.
1.2 Quá trình loãng xương xảy ra sớm hơn, tiến
triển nhanh hơn, gây nhiều hậu quả nặng nề như gãy, xẹp đốt sống, gãy cổ xương
đùi, gãy đầu dưới xương quay (xương cổ tay)... được gọi là loãng xương
thứ phát hay loãng xương loại I khi có thêm các nguyên
nhân:
Kém phát triển thể chất từ khi còn nhỏ, đặc biệt
là Còi xương, Suy dinh dưỡng, chế độ ăn thiếu protein
thiếu Calci hoặc tỷ
lệ Calci/Phospho trong chế độ ăn không hợp lý, thiếu vitamin D hoặc cơ thể
không hấp thu được vitamin D.
Phụ nữ sau khi mãn kinh,
hoạt động của buồng trứng ngưng lại, vì không có oestrogen nên các tế bào hủy
xương tăng hoạt tính (oestrogen có tác dụng ức chế hoạt động của các tế bào
hủy xương). Khối lượng xương sẽ mất đi từ 2 - 4% mỗi năm trong suốt 10 đến 15
năm đầu sau mãn kinh.
Khối lượng xương của đa số phụ nữ (65 tuổi giảm từ
30 đến 50%, có người chỉ còn không tới 30% khối lượng xương. Chính vì vậy, ở
phụ nữ tuổi (65 thường gặp các biến chứng nặng của loãng xương như gãy lún đốt
sống, gãy cổ xương đùi, gãy đầu dưới xương cẳng tay... hơn hẳn nam giới cùng
tuổi.
Sinh đẻ nhiều lần, nuôi con bằng sữa mẹ mà không ăn
uống đủ chất đặc biệt là protien và calciui để bù đắp lại.
Bất động
quá lâu ngày do bệnh tật (chấn thương cột sống, phải bất động), do nghề
nghiệp (những người du hành vũ trụ khi ở trong tàu vũ trụ đi ra ngoài không
gian)... vì khi bất động lâu ngày các tế bào hủy xương tăng hoạt
tính.
Ít hoạt động thể lực (hoạt động thể lực thường
xuyên sẽ giúp cho cơ thể đạt được khối lượng xương cao nhất lúc trưởng thành),
ít hoạt động ngoài trời (các tiền vitamin D nên ảnh hưởng tới việc hấp thu
calci
Bị các bệnh mãn tính đường tiêu
hoá (dạ dầy, ruột…) làm hạn chế hấp thu calci, vitamin
D, protein…
Bị các bệnh nội tiết:
cường tuyến giáp, cường tuyến cận giáp, cường tuyến vỏ thượng thận, tiểu
đường... và đặc biệt là suy giảm chức năng của các tuyến sinh dục (buồng trứng
với nữ và tinh hoàn đối với nam). Bị bệnh suy thận mãn hoặc phải chạy thận
nhân tạo lâu ngày gây mất nhiều calci qua đường tiết niệu.
Mắc các bệnh
xương khớp mãn tính khác đặc biệt là viêm khớp dạng thấp và thoái hóa
khớp
Do sử dụng một số thuốc: chống động kinh (dihydan),
thuốc chữa bệnh tiểu đường (insulin), thuốc chống đông (heparin) và đặc biệt
là các thuốc kháng viêm nhóm corticosteroid (corticosteroid một mặt ức chế
trực tiếp quá trình tạo xương, mặt khác làm giảm hấp thu calci ở ruột, tăng
bài xuất calci ở thận và làm tăng quá trình hủy
xương).
Có thói quen sử dụng nhiều rượu, bia, cà phê,
thuốc lá… làm tăng thải calci qua đường thận và giảm
hấp thu calci ở đường tiêu hóa.
2. Hậu quả của bệnh loãng xương ra sao
?
Gãy xương khi bị những chấn thương nhẹ là hậu
quả cuối cùng của bệnh loãng xương. Gãy xương do loãng xương thường gặp ở các
vị trí chịu lực của cơ thể như cột sống, thắt lưng và cổ xương
đùi.
Với người có tuổi, thường có nhiều bệnh lý của tuổi
tác đi kèm như tim mạch, huyết áp, tiểu đường... và đặc biệt với tình trạng
loãng xương nặng (thiếu chất khoáng và protein của xương) thì việc liền xương
thường rất khó khăn, đa số người bệnh phải nằm tại chỗ nhiều ngày, thậm chí
phải nằm điều trị dài ngày trong bệnh viện.
Việc nằm tại chỗ dài ngày khi gãy xương không những
làm tình trạng loãng xương càng nặng lên mà còn kéo theo nhiều nguy cơ rất bất
lợi cho sức khỏe người có tuổi như bội nhiễm đường hô hấp, đường tiết niệu,
loét mục ở các điểm tỳ đè...
Đây cũng là một nguyên nhân chính gây tàn phế và
giảm tuổi thọ cho người có tuổi (theo thống kê ở các nước phát triển có đến
20% người có tuổi bị gãy cổ xương đùi sẽ tử vong trong vòng 6 tháng đầu vì các
biến chứng do nằm lâu nêu trên).
3- Làm sao phát hiện sớm bệnh loãng xương ?
Bệnh loãng xượng (LX) diễn biến từ từ và thầm lặng.
Người bị LX thường không biết mình bị bệnh, cho đến khi bị biến chứng gãy
xương.
Bệnh LX: dễ chẩn đoán, khi đã bị LX, điều trị có
thể làm giảm 50% nguy cơ gãy xương. Nhưng, điều quan trọng là phải chẩn đoán
sớm và điều trị sớm để ngăn ngừa không cho gãy xương do LX xảy
ra.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh loãng
xương:
-Đau mỏi mơ hồ cột sống, đau dọc các xương
dài (đặc biệt xương cẳng chân), đau mỏi cơ bắp, ớn lạnh, hay bị chuột rút (vọp
bẻ) các cơ…
-Đau thực sự cột ssống, đau lan theo khoanh liên sườn, đau
khi ngồi lâu, khi thay đổi tư thế. Có thể đau mãn tính hoặc cấp tính sau chấn
thương (gãy xương cổ tay, gãy lún đốt sống, gãy cổ xương đùi…
-Đầy bụng
chậm tiêêu, nặng ngực khó thở
-Gù lưng, giảm chiều
cao.
Bệnh LX là bệnh diễn biến âm thầm, người ta thường
ví bệnh giống như một tên ăn cắp thầm lặng, hằng ngày cứ lấy dần calci trong
ngân hàng dự trữ xương của cơ thể con người. Khi có dấu hiệu lâm sàng, thường
là lúc đã có biến chứng, cơ thể đã bị mất tới 30% khối lượng xương. Do đó
người bệnh cần phát hiện các yếu tố nguy cơ gây LX thứ phát (đã nêu trên), đi
khám bệnh sớm ngay khi có các dấu hiệu đau mỏi mơ hồ ở cột sống, ở hệ thống
xương khớp, dọc các xương dài (đặc biệt xương cẳng chân), đau mỏi cơ bắp, vọp
bẻ…khám bệnh và theo dõi định kỳ (tuỳ mức độ bệnh).
4. Bệnh loãng
xương có chữa được không ?
Bệnh loãng xương có thể được cải thiện nhờ một
chế độ ăn uống sinh hoạt và thuốc men hợp lý. Các nghiên cứu theo dõi dài hạn
cho thấy việc điều trị đã làm tăng được khối lượng khoáng chất của xương, giảm
đau đớn, phòng ngừa được gãy xương, giảm các nguy cơ gãy xương... cải thiện
chất lượng cuộc sống cho người có tuổi.
Chế độ ăn uống, sinh hoạt:
Cần duy trì một chế độ ăn uống đầy đủ, đa dạng,
hợp lý phù hợp với nhu cầu của cơ thể trong từng giai đoạn, từng lứa tuổi,
từng thói quen sinh hoạt.
Theo các nghiên cứu gần đây nói chung chế độ ăn
thiếu calci. Sữa và các sản phẩm từ sữa (bơ, phomat..) giàu calci chỉ chiếm
một vị trí rất khiêm nhường trong khẩu phần ăn của đa số dân Việt Nam
ta.
Ở người có tuổi cần đặc biệt quan tâm đến các thành
phần khoáng chất (đặc biệt là calci) và protein trong khẩu phần ăn vì ở người
có tuổi khả năng ăn uống và hấp thu các chất dinh dưỡng và khoáng chất đều bị
hạn chế. Chính vì vậy sữa là một loại thức ăn lý tưởng để cung cấp cả calci và
protein cho người có tuổi. Lượng sữa cần thiết mỗi ngày từ 500 đến 1.000 ml
(có thể là sữa tươi, sữa chua hoặc sữa pha từ sữa
bột).
Cần duy trì một chế độ sinh hoạt đa dạng, năng
động: vận động thể lực đều đặn, vừa sức, tăng cường các hoạt động thể lực ở
ngoài trời. Việc vận động thường xuyên vừa có ích cho toàn cơ thể (hệ tim
mạch, hệ hô hấp, hệ thống tiêu hóa...) vừa tác dụng tốt trực tiếp cho hệ thống
xương cơ khớp, chống thoái hóa và chống loãng xương (do tăng cường hoạt động
của tế bào sinh xương, tăng cường hấp thu calci và
protein).
Đối với người lớn tuổi cần hết sức tránh bị té ngã
vì khi xương đã bị loãng, gãy xương sẽ rất dễ xảy ra, khi gãy lại rất khó
liền. Việc bất động để điều trị gãy xương không những làm cho loãng xương nặng
thêm mà còn là nguy cơ của nhiều bệnh lý do nằm lâu.
Chế độ thuốc
men:
Thuốc giảm đau chỉ dùng khi cần thiết, tùy mức
độ có thể dùng các thuốc giảm đau đơn thuần (Paracetamol, Idarac...) hay dùng
Calcitonine thuốc vừa có tác dụng ức chế hoạt động của các tế bào hủy xương
vừa có tác dụng giảm đau do hiện tượng loãng xương. Tránh dùng các thuốc kháng
viêm giảm đau đặc biệt nhóm thuốc kháng viêm chứa
Corticosteroides.
Cung cấp calci theo nhu cầu của cơ thể ở từng lứa
tuổi, từng trạng thái cơ thể... để bổ sung cho những thiếu hụt mà khẩu phần ăn
hàng ngày chưa đáp ứng đủ (Ở người có tuổi, nhu cầu về calci tăng mà khả năng
hấp thu calci ở ruột lại bị giảm sút, ở phụ nữ có thai, cho con bú, sau mãn
kinh... nhu cầu calci đều tăng...).
Cung cấp vitamin D hoặc chất chuyển
hóa của vitamin D (Calcitriol - Rocaltrol) để tăng cường khả năng hấp thu và
sử dụng calci của cơ thể.
Dùng các thuốc để ức chế hoạt động của các tế bào
hủy xương: Liệu pháp hormon thay thế (hormon sinh dục nữ cho phụ nữ sau mãn
kinh), Calcitonine... theo chỉ định và theo dõi của thầy
thuốc.
Dùng các thuốc để kích thích hoạt động của các tế
bào sinh xương: Các chất làm tăng đồng hóa (Durabolin, Deca-Durabolin), hormon
sinh dục nam (cho nam giới nếu có thiếu hụt cần bổ sung), muối Fluoride...
theo chỉ định và theo dõi của thầy thuốc.
Để có kết quả, việc điều trị loãng xương cần toàn
diện, liên tục và lâu dài. Thời gian điều trị bệnh loãng xương phải được tính
bằng năm chứ không tính được bằng tháng (để đánh giá kết quả điều trị, thường
phải sau 2 năm) nên chi phí thường quá cao. Chính vì vậy việc phòng ngừa bệnh
có ý nghĩa rất lớn, cả về hai mặt hiệu quả và kinh
tế.
Làm thế nào để biết điều trị có hiệu quả
?
Bệnh loãng xương cần được điều trị toàn diện,
liên tục và lâu dài. Có thể đánh giá kết quả điều trị cần dựa vào triệu trứng
lâm sàng và sự cải thiện về tỷ lệ khoáng chất (BMD) và khối lượng bộ xương
(BMC) so với trước khi điều trị :
Về mặt Lâm sàng: Người bệnh bớt
đau nhức.
Tăng khả năng vận động.
Giảm tỷ lệ bị gẫy xương (cổ
xương đùi, cổ tay, xương sườn và cột sống).
Tăng tỷ lệ khoáng chất của
xương:
Có thể được đo bằng các phương pháp:
- CT
scan (chụp cắt lớpp điện toán), MRI (chụp cộng hưởng từ hạt nhân) hệ thống
xương để đánh giá mức độ loãng xương trước và sau một thời gian điều
trị.
- DEXA (quét và đo độ hấp thu proton của xương) để
theo dõi sự cải thiện của tỷ lệ khoáng chất (BMD) và khối lượng xương (BMC)
sau một thời gian điều trị.
5. Có cách gì để phòng ngừa bệnh loãng xương
?
Việc đầu tiên và quan trọng nhất là bảo đảm
khối lượng khoáng chất đỉnh cuả bộ xương cao nhất lúc trưởng thành bằng
cách:
- Bảo đảm một chế độ dinh dưỡng đầy đủ cho các bà
mẹ khi mang thai (để em bé có bộ xương "vốn liếng" tốt nhất), khi cho con bú
(để đủ calci cho sự phát triển của bộ xương ngay từ
đầu).
- Bảo đảm chế độ dinh dưỡng và vận động cho trẻ em
để đạt mức phát triển cơ thể tốt nhất.
- Duy trì một chế độ dinh dưỡng hợp lý, một nếp
sống lành mạnh, năng động, kết hợp hài hòa giữa công việc hàng ngày, hoạt động
thể lực, giải trí... ngay từ khi còn nhỏ, ngay từ khi còn trẻ, tránh các thói
quen gây ảnh hưởng xấu tới chuyển hóa calci như: uống nhiều rượu, bia, cafe,
hút thuốc, ăn kiêng qúa mức, thụ động, ít vận động thể
lực...
- Từ tuổi 40, hoạt động của các tế bào hủy xương
bắt đầu trội hơn các tế bào sinh xương vì vậy chúng ta nên tính toán cụ thể và
bổ xung đủ lượng calci cần thiết bằng chế độ ăn uống hàng ngày và tăng cường
các hoạt động thể lực ngoài trời.
- Phát hiện và điều trị các bệnh kèm theo. Điều
chỉnh và kiễm soát chặt chẽ các thuốc điều
trị.
Nếu cần sử dụng lâu dài các thuốc chống co giật
(Phenyltoin, Barbiturate...), bổ xung thêm vitamin D vì các thuốc này ảnh
hưởng đến chuyển hoá của vitamin D.
Nếu cần sử dụng lâu dài Corticosteroid, bổ xung
thêm calci, vitamin D và chất kích thích tạo xương vì Corticosteroid vừa ức
chế trực tiếp sự tạo xương, vừa giảm hấp thu vitamin D, vừa tăng thải calci
qua nước tiểu.
- Ở phụ nữ mãn kinh một mặt tăng cường bổ xung
calci, vitamin D, khuyến khích hoạt động thể lực và tập luyện ngoài trời,
khuyến khích tham gia công tác và giao tiếp xã hội, mặt khác động viên và
hường dẫn chị em áp dụng Liệu pháp hormon thay thế nếu có chỉ định và có điều
kiện (Điều kiện theo dõi, điều kiện kinh tế).
Tốc độ mất xương sẽ cao nhất sau mãn kinh từ 5 đến
7 năm, vì vậy liệu pháp hormon thay thế rất cần được áp dụng sớm để ngăn ngừa
loãng xương sau mãn kinh. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất, mang lại hậu quả
nặng nề nhất cho nhiều phụ nữ lớn tuổi.
Ghi
chú
1-Các thuốc điều trị loãng
xương
1.1 Các thuốc chống huỷ
xương:
Là nhóm thuốc quan trọng nhất trong điều trị LX vì
làm giảm hoạt tính của tế bào huỷ xương (Osteoclast) và làm giảm chu chuyển
xương.
Nhóm hormon sinh dục nữ (Oestrogen và các giống hormon)
dùng để phòng ngừa và điều trị LX cho phụ nữ sau mãn kinh
(menopause):
Estrogen (Premarin), estrogen phối hợp với progesteron
(prempak C) hoặc thuốc tương tự hormone tibolol (Livial). Đây là các thuốc
dùng trong trị liệu hormone. Thay thế để phòng ngừa và điều trị cho phụ nữ sau
mãn kinh. Cần cân nhắc thật kỹ, dùng liều thấp trong thời gian ngắn các thuốc
loại này và cần theo dõi đề phòng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung, ung thư
tuyến vú.
Thuốc điều hòa chọn lọc thực thể estrogen (selective
Eotradiol Receptor Modulators, viết tắt SERMS). Điển hình là Raloxifene
(Evista). Đây là thuốc được quan tâm nghiên cứu sử dụng nhiều trong liệu pháp
hormone thay thế vì nó chỉ tác động vào các thụ thể của hormone estrogen chứ
không tác động như một hormone.
Lợi điểm là không ảnh hưởng đến nội mạc tử cung,
bảo vệ tuyến vú (do chống lại estrogen ở các mô này) nhưng lại có tác dụng bảo
vệ xương, tăng khối lượng xương (do có tác dụng giống như estrogen ở mô
xương). Nếu phụ nữ mãn kinh không dùng được estrogen sẽ dùng được
SERMS.
Nhóm hormon sinh dục nam (Androgen) dùng để phòng ngừa và
điều trị LX cho nam giới sau tắt dục (andropause) :Testosrerone (Biệt dược
Andriol)
Nhóm Bisphosphonates: Đây là nhóm thuốc mới được sử
dụng từ đầu những năm 1990. Hai thuốc được dùng rộng rãi là alendronat
(Fosamax) và risedronat (Actonel). Thực chất nhóm bisphosphonat là các dẫn
chất (chất có cấu trúc hóa học tương tự) hợp chất pyrophosphat, vì vậy, khi
đưa vào trong cơ thể, các bisphosphonat sẽ gắn chặt vào vi cấu trúc của
xương.
Thuốc có tác dụng chống hủy xương bằng cách ức chế
hoạt động các tế bào hủy xương trong khi quá trình tạo xương vẫn xảy ra bình
thường. Thuốc được dùng để điều trị và phòng ngừa loãng xương ở phụ nữ sau mãn
kinh, đặc biệt, loãng xương do dùng glucocorticoid kéo dài. Sử dụng thuốc
bisphosphonat phải lưu ý cách dùng thuốc phải thật đúng, bởi vì khi uống,
thuốc hấp thu kém (thức ăn thức uống cản trở sự hấp thu của thuốc vào máu) và
dễ gây tác dụng phụ (khó tiêu, viêm loét thực
quản).
Cách uống thuốc đúng như sau: uống nguyên cả viên
thuốc (không nhai) với ly nước đầy vào lúc bụng trống; không được ăn uống thức
uống gì khác 30 phút sau khi uống thuốc kể cả uống thuốc bổ sung calci; không
được nằm mà phải ngồi thẳng lưng hoặc đứng ở tư thế thẳng đứng trong vòng 30
phút sau khi uống thuốc. Lý do không được nằm trong vòng 30 phút như thế để
uống thuốc không bị đọng lại ở thực quản hoặc tránh có tình trạng trào ngược
dạ dày - thực quản thuốc sẽ làm hại niêm mạc thực quản. Không được uống cùng
với các thuốc chống acid, vitamin D và canxi. ( Các thuốc bổ sung canxi, thuốc
chống acid... có thể ảnh hưởng đến sự hấp thu
alendronate.
Sau khi uống nó ít nhất là nửa giờ mới được uống
các thuốc trên ). Cách uống khó khăn như thế nên alendronat có loại viên 5mg
và 10mg uống hằng ngày và loại alendronat 35mg và 70mg uống 1 lần cho mỗi 7
ngày.
Calcitonin: Calcitonin là một chuỗi các acid amin từ cá
hồi, có tác dụng chống huỷ xương, giảm đau do hủy xương và làm giảm chu chuyển
xương. Cơ chế tác dụng : Gắn kết với các thụ thể đặc hiệu trên hủy cốt bào,
làm giảm số lượng và hoạt động của hủy cốt bào, hiệu quả của thuốc: giảm tỷ lệ
gãy xương và giảm đau do hủy xương.
Thuốc Calcitonin dùng đường tiêm hoặc xịt mũi.
Đường tiêm dùng cách ngày một lần, phiền toái nên ít dùng. Dùng thuốc dạng xịt
200 UI/ngày, thuận tiện, ít tác dụng phụ. Thuốc có nhiều biệt dược với
calcitonin người, cá chình, lợn như calcinil, calcitar, calsyn, menocal...
Tuy nhiên, nếu tiêm cần thử test phản ứng. Dạng xịt có thể gây khô
mũi, phù nề, sung huyết, hắt hơi, dị ứng, viêm họng, mệt mỏi, rối loạn vị
giác, kích ứng, loét, sần đỏ, viêm xoang, chảy máu cam...
1.2 Các
thuốc tăng tạo xương
Parathyroid Hormon: Được
công nhận là thuốc giúp tăng đồng hóa đồng thời giúp tạo xương đang được
nghiên cứu để trị loãng xương. Tác dụng của PTH là giúp tăng sự hấp thụ calci
ở thận và sự hấp thu calci ở ruột để vào máu. Sản phẩm PTH do người điều chế
từ công nghệ sinh học có tên teriparatide (biệt dược Parathar) đã ra đời nhưng
chưa được sử dụng rộng rãi.
Calcium và vitamin D: để cung cấp
"nguyên liệu " cho việc tạo xương mới, kích thích hoạt động của tế bào sinh
xương (Osteoblast)
Calci: Đây được xem là nguyên liệu tạo xương
mới. Thuốc được dùng ở dạng muối: carbonat, lactat, gluconat, citrat. Liều
dùng 500-1000mg/ngày, nên uống cùng với bữa ăn.
Vitamin D và các
chất chuyển hóa vitamin này: Đây là thuốc thường được kết hợp dùng chung
với calci. Liều dùng 400-800 IU/ngày. Vitamin D giúp sự hấp thu calci qua niêm
mạc ruột vào máu, giúp sự sử dụng calci hiệu quả
hơn.
Hiện nay hay dùng calcitriol là dạng chuyển hóa của
vitamin D (vitamin D khi vào cơ thể sẽ được chuyển hóa thành dạng cuối cùng là
calcitriol là dạng có hoạt tính, dùng thuốc là calcitriol cơ thể không phải
mất công chuyển hóa, tuy nhiên, phải lưu ý theo dõi calci máu và calci niệu vì
thuốc có nguy cơ gây tăng calci máu, nếu thấy tăng phải hạ liều
thuốc).
Người già hấp thụ canxi kém, cần dùng thức ăn giàu
canxi. Khi bị loãng xương, phải dùng canxi với liều cao, mỗi ngày 800-1.200mg (trung bình là
1.000mg). Nếu chỉ dùng sữa giàu canxi thì phải uống khá nhiều. Cả một hộp sữa
Anlene 400g chỉ có 2.400mg canxi, mỗi lần uống khoảng 4 thìa, pha trong 200ml
nước, chứ không thể uống gần nửa hộp để đủ liều
được.
Hơn nữa, nếu uống quá nhiều sẽ gây mất cân đối giữa
sữa và các thức ăn khác. Do đó, phải dùng thuốc. Thuốc có dạng chứa chất canxi
vô cơ (canxi carbonat, canxi phothat) hoặc chứa chất canxi hữu cơ (canxi
gluconat). Nên chọn dùng loại chứa chất canxi hữu cơ. Phải xem kỹ hàm lượng:
ví dụ mỗi ống thuốc có loại chứa tới 1.000mg nhưng cũng có loại chỉ chứa 100mg
canxi.
Ở phụ nữ lớn tuổi và người có khả năng hấp thụ
canxi kém, với liều dùng trên, canxi làm chậm tốc độ hủy xương, làm giảm tần
suất gãy xương. Thuốc có thể gây một số tác dụng phụ như táo bón, nhưng không
gây sạn thận, không tăng canxi niệu. Ít khi chỉ dùng canxi đơn độc mà phải
dùng kèm với vitamin D.
Nghiên cứu trong 3 năm trên 3.270 phụ nữ sống tại
các nhà dưỡng lão dùng mỗi ngày 1.200mg canxi kết hợp với 800 IU vitamin D
nhận thấy: “Xác suất gãy xương khớp háng giảm 29% và gãy xương ngoài đốt sống
giảm 24% so với dùng giả dược”. Vitamin D dùng ở liều này là an toàn. Nếu
không tiện dùng hằng ngày thì có thể tiêm hai năm một lần với liều
150.000-300.000 IU.
Calcitriol: Là dẫn chất
vitamin D3, làm tăng hấp thu canxi và phospho ở mô xương, điều hòa canxi huyết
do loạn dưỡng canxi, nhuyễn xương nhờn vitamin D. Cần chú ý tránh dùng quá
liều gây tăng canxi và phospho máu, đường niệu. Không dùng phối hợp với các
thuốc có vitamin D khác.
Thuốc tăng đồng hoá (anabolic
agents): Thuốc như nandrolon (Durabolin,
Deca-durabolin) ngoài tác dụng tăng đồng hóa tổng hợp chất đạm còn có tác dụng
kích thích sự tạo xương (Deca-durabolin dùng liều 50mg/mỗi 3
tuần).
Trên đây là các loại thuốc điều trị loãng xương. Để điều trị có
hiệu quả cần đến bác sĩ chuyên khoa khám để được chẩn đoán đúng bệnh, để xem
có cần thiết dùng đến thuốc và nếu dùng thuốc sẽ dùng thuốc loại nào và thường
là phải phối hợp thuốc.
Có nhiều kiểu phối hợp thuốc chống hủy xương và
thuốc giúp tạo xương mà chỉ có bác sĩ mới giúp được sự chọn lựa tốt
như
Calcitonin + calci và vitamin
D;
Hormone thay thế + calci và vitamin
D;
Bisphosphonat + calci và vitamin
D;
Bisphosphonat + hormone thay thế + calci và vitamin
D v.v...
2- Vitamin D và bệnh
loãng xương
Vitamin D thường được xem là vitamin “trời cho” vì
loại sinh tố đặc biệt này được cơ thể tổng hợp qua da nhờ tác động của ánh
nắng mặt trời. Chính bởi vậy, nhiều chuyên gia y khoa và dinh dưỡng cho rằng
vitamin D vừa là một loại sinh tố, lại vừa là một hormone.
Khoảng 90-95% vitamin D trong cơ thể con người được
hình thành từ quá trình tổng hợp dưới sự tác động của ánh nắng mặt trời và chỉ
khoảng 5-10% là do nguồn thực phẩm. Vitamin D hiện diện rất ít trong thực phẩm
(chủ yếu có trong các loại cá giàu chất dầu như: cá hồi, cá tuyết, cá thu, cá
trích…, trong một số loại nấm và rau có màu xanh
đậm…).
Mặc dù chức năng chính của vitamin D không phải là
bảo vệ xương, chống các loại bệnh về xương nhưng sinh tố này (khi được kết hợp
với hormone tuyến cận giáp) có thể làm cho tỷ trọng canxi trong máu của con
người ổn định.
Việc thiếu hụt calci và vitamin D thường gây ra
những rối loạn xương, đặc biệt là chứng loãng xương và nhuyễn xương ở phụ nữ.
Hơn thế, vitamin D còn được coi là một loại hormone, có mặt hầu hết các tế
bào. Do đó, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới các bệnh về xương khớp, vitamin
D còn ảnh hưởng đến hàng loạt các chứng bệnh thời hiện đại khác, bao gồm cả
các bệnh về tim mạch, cao huyết áp, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, các
bệnh truyền nhiễm, viêm nhiễm, nhiễm trùng hay bệnh lao
phổi…
Phòng thiếu hụt vitamin
D
Vì vitamin D được sản xuất từ ánh nắng mặt trời,
người ta thường lầm tưởng rằng ở những nước nhiệt đới (như Việt Nam) thì không
có vấn đề thiếu vitamin D. Nhưng sự thật thì ngược lại: một tỉ lệ lớn dân số
trên thế giới, kể cả các nước nhiệt đới, thiếu vitamin D. Tại Thái Lan và
Malayxia, tỷ lệ thiếu hụt cũng là 50% dân số. Còn ở Nhật Bản - đất nước mặt
trời mọc - tỉ lệ thiếu vitamin D có thời kỳ lên đến
80-90%!
Cách tốt nhất, theo các chuyên gia y tế, là phụ nữ
từ 35-50 tuổi cần phải phòng ngừa loãng xương bằng cách: Đi kiểm tra mật độ
xương định kỳ 3-6 tháng/lần, có chế độ năng vận động, tập luyện ngoài trời và
dùng các chế phẩm bổ sung hàng ngày để đáp ứng đủ nhu cầu của cơ thể.
Trong trường hợp không thể áp dụng các phương pháp
tổng hợp vitamin D tự nhiên, bạn cần lựa chọn các sản phẩm bổ sung cả calci và
vitamin D hơn là chỉ bổ sung calci đơn thuần để đảm bảo khả năng hấp thụ của
cơ thể.
3- Vì sao nữ hay bị loãng xương hơn
nam?
Lý do dẫn tới hiện tượng này chính là sự khác
biệt về đặc điểm giải phẫu và sinh lý của hai giới. Đó là một phần quan trọng
trong bản báo cáo "Mãn kinh, liệu pháp hoóc môn thay thế và loãng xương" do
Tiến sĩ Takeshi Aso, Đại học Y-Nha khoa Tokyo
(Nhật),.
Theo Tiến sĩ Takeshi Aso, 3 nguyên nhân chính khiến
nữ dễ bị loãng xương hơn nam là:
- Nam giới có khối lư𓁓ng xương
lớn hơn nữ giới. Vì vậy, khi mất cùng một lượng xương, nữ sẽ chóng bị loãng
xương hơn nam.
- Nam giới có nhiều cơ hơn, mà các cơ này lại đóng
vai trò quan trọng trong chuyển hóa xương. Chúng tạo ra áp lực liên tục lên hệ
xương, giúp kích thích quá trình tạo xương.
- Vào tuổi xế chiều, nồng độ testosterone (hoóc môn
giúp củng cố hệ xương) trong huyết thanh ở nam giới chỉ giảm từ từ chứ không
nhanh như nữ giới.
Bài đọc
thêm
|