Hai
dụ ngôn về Nước Thiên Chúa.
(Chú giải
của Lm PX Vũ Phan Long)
Qua các dụ ngôn trong bài Tin Mừng này,
chúng ta hiểu rằng ngay bây giờ trong hiện tại,
ta đã có thể cảm nghiệm sức mạnh cứu
độ của Triều Đại Thiên Chúa.
1.- Ngữ
cảnh
TM
Máccô liên tục nhắc lại rằng Đức Giêsu
giảng dạy, nhưng không bao giờ ghi lại nội
dung cả (x. 1,21; 2,13; 6,2.6.34; 10,1).
Ngoại trừ bài Diễn từ cánh chung (ch. 13), các giáo
huấn được triển khai nhất của
Đức Giêsu nằm trong Mc 4, có thể được gọi
là “Chương các dụ ngôn (ba dụ ngôn)” (4,1-34).
Chương này gồm có hai phân đoạn lớn và ba phân
đoạn nhỏ:
* Mở (cc. 1-2);
1) Dụ ngôn Người gieo
giống (cc. 3-9);
a- Mục đích của các
dụ ngôn (cc. [10]11-12);
* Giải thích dụ ngôn
Người gieo giống (cc. 13-20);
b- Hình ảnh Cái đèn và cái
đấu: trách nhiệm
(cc. 21-25);
2) Dụ ngôn
Hạt giống tự mọc lên (cc. 26-29) và Hạt cải
(cc. 30-32);
c- Kết luận về các
dụ ngôn (cc. 33-34).
Đây
là cách hành văn quen thuộc của Mc: ghép các phần
của các bài tường thuật vào nhau để soi sáng
các bài lẫn nhau.
2.- Bố
cục
Bản
văn này có thể chia thành ba phần:
1) Dụ ngôn
Hạt giống tự mọc lên (4,26-29);
2) Dụ ngôn
Hạt cải (4,30-32);
3) Kết luận
về các dụ ngôn (4,33-34).
3.- Vài
điểm chú giải
-
Chuyện Nước Thiên Chúa cũng tựa như
chuyện một người (26): dịch sát “Nước Thiên Chúa tựa như
một người”. Trong lối diễn tả của các
kinh sư, dụ ngôn không ví Nước Thiên Chúa với
một người; dụ ngôn chỉ muốn minh hoạ
một sự thật liên quan đến Nước Thiên
Chúa nhờ một câu truyện trong đó người
ấy có một vai trò. Trong những ví dụ
thuộc loại này, thường thường chính
phần cuối mới cung cấp một hình ảnh
trực tiếp hoặc gián tiếp gợi đến
Nước Thiên Chúa. Trong bài dụ ngôn Mc, sự
việc Nước Thiên Chúa đến thì tựa như
những gì xảy ra vào lúc thu hoạch
(c. 29).
- một người: Không nhất thiết phải
đồng hoá người gieo giống với Đức Giêsu,
bởi vì từ ngữ này được dùng rất
tổng quát (không như bản văn Mt).
-
Đêm hay ngày: Đêm
đi trước ngày bởi vì ngày được coi
như bắt đầu với lúc mặt trời lặn.
- bằng cách nào thì người ấy không
biết: Tiến trình
theo đó hạt giống mọc lên có một quy luật bên
trong nó; người gieo giống không phân tích tiến trình
này, mà ông có băn khoăn về tiến trình này cũng
không lợi ích gì.
-
Đất tự động (HL. automatê) (28): Từ này mô tả một sự
tăng trưởng tiệm tiến của hạt
giống trước mùa gặt. Trong ngữ cảnh là
sự so sánh với Nước Thiên Chúa, tác giả nhấn
mạnh trên hoạt động ẩn giấu và tiệm
tiến của Nước Thiên Chúa hầu đưa
hạt giống đến chỗ tăng trưởng hoàn
toàn.
- Lúa
vừa chín (29): Trong giai
đoạn tăng trưởng, người nông phu không
phải làm gì trên cánh đồng cả; mọi sự tiến
hành không cần ông. Nhưng hoàn cảnh thay đổi
đột ngột với c. 29 (x. liên từ dé [= “nhưng”;
“khi”] và trạng từ Hy Lạp euthys [= “tức khắc”]).
Sau một thời gian không làm gì cả (những câu
trước), người nông phu can thiệp không chút
chậm trễ vào lúc thu hoạch. Bây giờ bản văn hoàn toàn chú ý đến
người nông phu, đến sự thay đổi thình
lình trong lối xử sự của ông.
- đem liềm hái ra gặt: Đây là câu trích mặc nhiên Giôen 4,13:
“Các ngươi hãy tra liềm vào, vì đã tới mùa lúa
chín”. Vị ngôn sứ loan báo cuộc phán xét mà Thiên Chúa
sắp thực hiện trong cánh đồng Giôsaphát
để chống các dân tộc ngoại giáo (Ge 4,12-16). Sách Khải huyền cũng ám chỉ
đến biến cố này (Kh 14,14-16).
- hạt cải (31): Tục ngữ xứ Paléttina coi đây là hạt
giống nhỏ nhất. Để nói một vết máu
thật nhỏ, các kinh sư nói: “Không lớn hơn một
hạt cải”. Điểm nhắm là một
hạt giống nhỏ nhất và một cây thật to.
Cách sử dụng thì (tense) hỗ trợ cho sự
tương phản này: tác giả nói đến việc
gieo hạt ở thì quá khứ aorist (“một khi
người đã được gieo”, cc. 31 và 32) và nói
đến sự tăng trưởng ở thì hiện
tại.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Dụ
ngôn Hạt giống tự mọc lên (26-29)
Sẽ
đến ngày Thiên Chúa can thiệp dứt khoát vào lịch
sử nhân loại. Trước đó, có một thời
gian Thiên Chúa để cho mọi sự cứ đi theo dòng
của chúng, khiến ta có thể nghĩ rằng Ngài không
quan tâm gì đến thế giới (x. sự ngạc nhiên
của Gioan Tẩy Giả: Mt 11,2-6). Đức Giêsu loan báo rằng Nước Thiên Chúa
đã gần kề. Thế mà mọi người
đều biết rằng sự thiết lập
Nước Thiên Chúa được khởi đầu
bằng việc phán xét để tiễu trừ khỏi
dân Israel tất cả những kẻ tội lỗi, không
xứng đáng được tham dự vào ân huệ
của Nước Thiên Chúa. Vậy, nếu
Thiên Chúa đã thực sự quyết định thiết
lập Vương quyền của Ngài trên mặt
đất, tại sao ta chưa thấy một dấu gì
cho biết là cuộc phán xét khủng khiếp ấy đã
đến?
Để
trả lời, Đức Giêsu dùng một dụ ngôn
để ví: Hạt giống là Lời. Hạt
giống mang trong mình một sức mạnh vô phương
kháng cự. Một khi đã được gieo,
hạt giống-Lời đi sâu vào trong các tâm trí và con tim và biến đổi những ai nghe
Lời. Hoa trái không lệ thuộc
người gieo giống, người rao giảng, nhưng
lệ thuộc vào sức mạnh mà hạt giống có trong
mình. Không ai có thể kéo một cây con để làm cho
nó mọc nhanh hơn được! Dụ ngôn dạy chúng
ta đặt tin tưởng nơi lời Tin Mừng. Làm
cho hạt giống-Lời lớn lên: đây không phải là
công việc của chúng ta. Chúng ta chỉ có
một việc phải làm đó là gieo Lời trên mảnh
đất được giao cho chúng ta. Rồi
sẽ đến lúc thu hoạch.
Đức Giêsu cho các thính giả hiểu rằng thời
gian Người hoạt động ở trần gian chính
là giai đoạn cuối cùng của Lịch sử cứu
độ, đi sát ngay trước cuộc can thiệp chung cuôc của Thiên Chúa. Ai có
bổn phận cộng tác với Người để
gieo hạt giống-Lời, hãy kiên nhẫn chờ
đợi. Nhưng tất cả
mọi người đều đón nhận Lời, hãy
làm sao để hạt giống có thể thật sự
mọc lên và sinh hoa trái.
* Dụ
ngôn Hạt cải (30-32)
Một
cây cho chim trời trú ngụ rất thường
được dùng để nói về một vị vua
biết dùng quyền lực mà che chở thuộc hạ (x.
Đn 4,9.18; Ed 31,5…). Nhưng một
đoạn như Ed 17,22-23 thì lại
nhấn mạnh trên sự phồn vinh xảy ra với
Nước Thiên Chúa vào thời tận thế. Đây
cũng là ý nhắm của dụ ngôn Tin Mừng: hình
ảnh một cây che chở chim trời báo trước tình
trạng sự việc vào lúc Thiên Chúa thiết lập
Vương quyền của Ngài trên mặt đất.
Vào lúc tiến trình đưa tới
việc thiết lập Nước Thiên Chúa bắt
đầu diễn tiến (sứ vụ của
Đức Giêsu), người ta nghĩ đây là một
biến cố không đáng kể. Nhưng cũng như hạt cải
nhỏ bé hứa hẹn một cây lớn, sứ mạng
của Đức Giêsu đúng là chặng đầu tiên
của sự can thiệp của Thiên Chúa nhằm thiết
lập Triều Đại của Người. Vậy
nhận biết ý nghĩa đích thực của sứ
mạng của Đức Giêsu, chính là hiểu rằng thái
độ phải có trước sứ mạng này là
chấp nhận hoặc từ khước quyền
chủ tể cánh chung của Thiên Chúa.
Chính thái độ này sẽ xác định vận mệnh
của mỗi người trong thế giới bên kia.
* Kết
luận về các dụ ngôn (33-34)
Cả hai dụ ngôn đều nhấn
mạnh tầm quan trọng quyết định của
thời gian hiện tại đối với các thính
giả của Đức Giêsu. Hai dụ ngôn này mời gọi nhận biết
sứ mạng của Đức Giêsu chính là khởi
đầu cuộc can thiệp cánh chung
của Thiên Chúa. Áp dụng giáo huấn vào trong đời
sống Giáo Hội, thời gian hiện tại không còn
phải là thời gian của sứ vụ của
Đức Giêsu, nhưng là thời gian của nếp
sống và hoạt động rao giảng của Giáo
Hội.
+ Kết luận
Thoạt nhìn, chúng ta thấy kết luận
của diễn từ các dụ ngôn không có vấn
đề. Đức
Giêsu loan báo Lời Thiên Chúa cho người ta (“đám
đông” ; x. 4,1-2). Người diễn
tả bằng các dụ ngôn theo mức
độ hiểu biết của họ. Dường
như đối với Đức Giêsu, các dụ ngôn là
một phương tiện để giúp các thính giả
hiểu Người dễ dàng hơn. Ngoài ra,
Người còn cung cấp các giải thích bổ sung cho nhóm
môn đệ (c. 10). Mọi sự không rõ ràng rồi hay sao?
Vấn
đề chỉ xuất hiện rõ ràng khi ta lưu ý
rằng tác giả Mc đã muốn kết thúc với
đề tài ngài đã đưa vào ở trên (cc. 10-12).
Đối với công chúng, “những kẻ ở ngoài” (c.
11), Đức Giêsu “không bao giờ rao giảng mà không dùng
dụ ngôn” (c. 34); “với những người kia…, cái gì cũng phải dùng dụ ngôn” (c.
11). “Nhưng khi chỉ có riêng thầy trò với nhau” (HL.
kat’ idian, c. 34), “khi còn một mình” (HL. kata monas, c. 10),
Đức Giêsu “giải đáp” tất cả cho các môn
đệ (c. 34), nghĩa là “những kẻ đang ngồi
quanh Người cùng với Nhóm Mười Hai” (c. 10), là
những kẻ mà “mầu nhiệm nước Thiên Chúa
đã được ban cho” (c. 11).
Vậy,
các dụ ngôn là một thứ ẩn ngữ, mà chỉ các
môn đệ mới có chìa khóa để hiểu
được, còn đám đông, mà Đức Giêsu không
muốn nói với họ bằng một ngôn ngữ rõ ràng,
thì vẫn không thể nắm bắt được ý
nghĩa đích thực của giáo huấn của
Người: “Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa” không
được ban cho “những kẻ ở ngoài”; chính vì
thế mà Đức Giêsu “không nói gì mà không dùng dụ ngôn”.
Đây
chính là “thuyết các dụ ngôn” trong TM Mc (J. Dupont), mà
thật ra, đây cũng chỉ là một phương
diện đặc biệt của “thuyết về bí
mật thiên sai” của tác giả. Vào lúc tác giả soạn
TM I, có một sự kiện không thể phủ nhận,
nhưng thật gai chướng: dân tộc Do Thái nói chung đã không đón nhận Tin Mừng.
Phải chăng kế hoạch của Thiên Chúa đã
thất bại? Hay là phải nhìn nhận rằng sứ
mạng của Đức Giêsu không đến từ Thiên
Chúa? Tác giả Mc tìm ra được câu trả lời
thần học trong bản văn Is 6,9-10
(x. Mc 4,12). Trong sứ mạng của Đức Giêsu, đã
được ứng nghiệm lệnh truyền của
Thiên Chúa qua miệng của vị ngôn sứ, là phải nói
với dân cách nào để “họ có trố mắt nhìn
cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không
hiểu…”.
Vậy,
vị sứ giả của Thiên Chúa phải diễn tả
cách nào để người ta không hiểu
được: đó đã là quyết định của
Thiên Chúa mà! Người đã muốn làm cho
sứ mạng của vị sứ giả trở thành
một phán quyết chống lại một dân mù quáng và
cứng lòng. Nhưng làm thế nào
nhận ra sấm ngôn ấy là chương trình hoạt
động của Đức Giêsu? Tác giả Mc tìm ra
được đáp số nơi việc Đức Giêsu
sử dụng các dụ ngôn: Người nói bằng dụ
ngôn cho đám đông hoặc cho các đối thủ, vì
Người không buộc phải làm cho họ hiểu
Người. Dưới mắt Mc, dụ ngôn
là như một phương tiện không phải
để làm cho một giáo huấn nên dễ hiểu
hơn, nhưng để che đậy ý nghĩa của
giáo huấn này dưới những hình ảnh. Để người ta hiểu, thì cần có
một lời giải thích; nhưng lời giải thích
chỉ được ban cho các môn đệ mà thôi.
Tuy nhiên, tác giả đã nhận ra ngay nguy cơ là
thuyết này có thể đưa tới chủ
trương bí truyền (esoterism); vì thế, ở 4,21-25,
ngài mới xác định rằng các môn đệ đã
nhận được mạc khải là để đi
phổ biến rộng rãi, để đi hô to trên mái nhà.
Chúng ta có thể nhận định
rằng thuyết của Mc về các dụ ngôn là một
thuyết khá giả tạo. Nhưng để đánh giá đúng đắn,
cần đo lường được mức độ
nghiêm trọng của vấn đề đang
được hoàn cảnh cụ thể đặt ra cho
tác giả và cho Hội Thánh thời ngài: đoàn dân đông
đảo được Thiên Chúa tuyển chọn đã
không tin vào Đức Giêsu và đã không chấp nhận
sứ điệp của Người. Bản văn Is 6,9-10 cho thấy là Thiên Chúa đã thấy
trước (quan phòng) tình trạng sự việc như
thế.
Rõ ràng
công việc soạn thảo TM Mc mang dấu ấn của
các hoàn cảnh và các vấn đề thời tác giả.
Ngài đã nghĩ tới việc rao giảng khi kể
lại dụ ngôn trong đó Lời Chúa được hình
dung như một hạt giống. Ngài cũng
đang cố gắng tìm một giải thích thần
học cho thất bại của sứ vụ này, bằng
thuyết về giáo huấn bằng dụ ngôn.
Chứng nhân của Lời Chúa không phải là người
chỉ biết bằng lòng với việc lập lại
máy móc Lời Chúa, nhưng là người biết tìm nơi
Lời Chúa câu trả lời cho những nhu cầu của
những con người thời mình.
5.- Gợi
ý suy niệm
1.
Cả ba dụ ngôn (Người gieo giống, Hạt
giống tự mọc lên, và Hạt cải) có điểm chung là không truyền đạt những giáo
huấn đặc biệt, nhưng chỉ bàn về
việc lấy lập trường trước lối
hành động của Đức Giêsu. Dường như
thực tại thấy được (sự từ
chối, sự vắng mặt của Thiên Chúa, những
khởi đầu không sáng sủa mấy) thì mâu thuẫn
với sứ điệp và uy thế Mêsia của
Người. Do đó, ba dụ ngôn đều mời
gọi sống đức tin.
2. Qua
các dụ ngôn, chúng ta hiểu rằng Triều Đại
Thiên Chúa không những đến chắc chắn, mà bây
giờ trong hiện tại, ta đã có thể cảm
nghiệm sức mạnh cứu độ của Triều
Đại này. Tuy nhiên, chỉ người nào
biết nhìn các sự việc với con mắt đức
tin mới nhận ra được sức mạnh này.
3.
Như tác giả Mc, thừa tác viên Lời Chúa cần
phải tìm cho ra sứ điệp được gửi
đến cho dân Thiên Chúa hôm nay từ bản văn Kinh
Thánh. Đó chính là sống và thi hành chức
năng ngôn sứ, bởi vì ngôn sứ chính là người
thay mặt Thiên Chúa mà truyền đạt cho dân Ngài
biết thánh ý Ngài đối với dân trong hoàn cảnh
hiện tại.
4. Khi
thấy rằng tình yêu, sự kính trọng đối
với các quyền của con người và sự tự do,
sự tha thứ, không đưa tới những kết
quả mong muốn, có những Kitô hữu đã bị cám
dỗ thúc bách Triều Đại Thiên Chúa đến cho
nhanh bằng cách sử dụng những phương
tiện Đức Giêsu đã cấm, như vũ lực,
mưu mô, gian dối… Đức Giêsu dạy chúng ta tin
tưởng vào sức mạnh của Lời Tin Mừng.