Thánh Nhân
Tự hỏi thánh nhân là ai? Tại sao người đó được gọi là thánh nhân? Thánh nhân cũng là một con người bình thường bằng da bằng thịt, họ cũng có một cuộc sống bình thường như bao nhiêu người khác, nhưng đời sống đạo đức của họ thì truyệt vời và cao thượng phi thường. Ai ai cũng có thể làm được, bởi vì đạo đức là những đức hạnh sống dành cho con người, chúng rất gần gủi, bình dị và giản đơn.
Vậy chúng ta hãy thử quan sát vài đức hạnh của các vị thánh nhân từ cổ tới kim như đức Phật, đức mẹ Maria, Chúa Giê-Su, ông thánh Martinô, bà thánh Theresa, v.v...:
1. Họ có một lòng yêu thương bao la rộng lớn. Lòng yêu thương của họ không chỉ giới hạn ở con người mà là các loài vật, cây cỏ thiên nhiên. Họ biết quý trọng sự sống của muôn loài. Bởi vì họ quan niệm rằng ai ai cũng có cha mẹ, anh chị em, vợ chồng con cái, bà con thân bằng quyến thuộc. Các loài vật dù ác tới đâu cũng có cha mẹ anh chị em và người thân. Do hiểu rõ như vậy các vị thánh nhân không bao giờ giết hại hay làm hại bất kỳ ai, bất kỳ loài vật nào, họ không bao giờ vì ham vui mà bẻ một cành hoa đem đi cắm. Chính vì sống được với lòng yêu thương như vậy cho nên tâm họ bao la rộng lớn, không bao giờ có ý muốn hại ai, muốn đem sự đau khổ đến cho ai hay loài vật nào. 2. Họ không bao giờ tham lam lấy cắp của ai, dù là sợi chỉ cây kim, trái ớt. Vì họ hiểu khi người khác bị mất vật gì, người đó rất đau khổ và giận dữ. Thánh nhân không bao giờ muốn người khác buồn khổ vì mình, do vậy họ quyết không bao giờ tham lam lấy cắp của bất kỳ ai. 3. Họ thích sống một mình, sống không gia đình. Không thích nói chuyện giao du, tụ họp ca hát, bàn tán chuyện đời. Họ dành thời gian lo trau dồi rèn luyện nhân cách của mình cho toàn thiện thêm. Mỗi khi rảnh rỗi họ "tư duy suy nghĩ về những hành động lời nói của mình có làm khổ mình, làm khổ người khác hoặc làm khổ các loài vật khác hay không. Nếu có thì họ quyết từ bỏ. Nếu không thì họ tư duy nhiều thêm để tăng trưởng những điều thiện trong tâm hồn mình." Cách sống tư duy như vậy dần dần hình thành những tính cách cao thượng tuyệt vời trong con người họ và trở thành bản năng tự nhiên. 4. Họ luôn thành thật, thật thà ngay thẳng, không gian dối, lương lẹo, mưu tính, không dối gạt người bao giờ dù là nói chơi. Vì họ hiểu người bị người khác dối gạt rất đau khổ và sẽ giận dữ. Do vậy họ không bao giờ muốn làm ai đau khổ vì lời nói của mình. Hơn nữa ta có thể thấy họ không bao giờ nói chuyện có nói không, chuyện không nói có. Không bao giờ nói hai lời. Không tranh biện với bất kỳ ai. Không bao giờ nói xấu ai, chỉ trích ai, chê bai ai. Chỉ nói những lời nói thương yêu, khuyến khích mọi người thương yêu nhau, sống hòa hợp và đoàn kết nhau,… 5. Họ là một con người minh mẫn sáng suốt không dùng những chất kích thích như rượu, bia cafe thuốc lá hoặc các chất kích thích khác. Vì họ hiểu những chất kích thích đó chỉ hại người hại mình. 6. Đời sống của các vị thánh nhân thật đơn giản. Ít muốn biết đủ. Chỉ giữ lại đủ quần áo để mặc, không ngủ giường to rộng lớn, không tích trữ hoặc chạy theo các kiểu ăn mặc Á, Âu, Mỹ. Nếu có dư vật gì, tài sản gì thì chia sẻ, bố thí, xem có ai cần đều đem cho hết. Họ sống đơn giản tự nhiên không trang điểm làm đẹp, nhuộm chuốt. Quan trọng là ăn mặc sạch sẻ kín đáo và tươm tất. Trong nhà luôn ít đồ vật, nhìn thoáng mát, gọn gàng sạch sẽ không cầu kỳ, không chất chứa tàng trữ đồ đạc. 7. Họ không bao giờ đổ lỗi cho ai, không bao giờ trách ai. Vì họ hiểu khi trách ai là tự mình làm khổ mình. Họ biết cách sống vui vẻ chấp nhận tất cả mọi việc đến với họ. Không kêu than, không đổ lỗi cho ai hay cho hoàn cảnh nào, chỉ nhìn thấy lỗi mình. 8. Họ sẵn sàng giúp đỡ mọi người, chia sẻ ngay những gì mình có mà không hối tiếc từ công sức, của cải tài sản tiền bạc, thời gian, kinh nghiệm sống, những lời an ủi,… 9. Họ sống không lo lắng sợ hãi và buồn phiền. Với cách sống có lòng yêu thương bao la rộng lớn thì có ai làm cho họ phải lo lắng buồn phiền hoặc sợ hãi. Ai họ cũng có thể yêu thương và tha thứ được, dù là ai hại họ đến đâu, ác đến đâu, các vị thánh nhân cũng đều tha thứ bỏ qua và cho đi tất cả, kể cả mạng sống của chính mình. Đúng vậy, chúng ta thường lo lắng sợ hãi người khác hại mình vì chúng ta vẫn chưa có lòng yêu thương rộng lớn. Một con kiến cắn chúng ta, chúng ta còn thấy đau, thấy giận và giết chúng ngay nói chi là một con người đánh mình, giết mình hoặc hại mình. Lòng yêu thương rộng lớn đó có được là do hằng ngày họ vun đắp được từ những hành động thương yêu các loài vật bé nhỏ xung quanh, không bao giờ hại chúng, không bao giờ giết chúng, không bao giờ ăn thịt chúng vì họ không muốn thấy chúng khổ, không muốn chúng mất đi người thân thương. 10. Họ sống đối xử bình đẳng với tất cả mọi người và mọi loài vật. Cung kính và tôn trọng, nhường nhịn tất cả. Không phân biệt thiện ác, không phân biệt màu da dân tộc, nam nữ, có bệnh tật hay khỏe mạnh, giàu hay nghèo, già hay trẻ, thân thuộc máu mủ ruột thịt hay lạ mặt. Ai ai họ đều đối xử như nhau, không thiên vị ai. 11. Họ sống không màng danh lợi, không bao giờ muốn khẳng định cái tôi, cái ta. Họ không nhận xét, không bác bỏ, chê bai ý kiến, lời nói hoặc việc làm của người khác. Họ biết từ bỏ ý niệm riêng tư để sống vì người khác, diệt cái bản ngã bằng những đức hạnh nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. 12. Họ không bao giờ nghi ngờ ai, họ luôn tin tưởng vào mọi người, tin vào mọi người là người tốt, người thiện, người giúp đỡ mình, người muốn tốt cho mình, người yêu thương mình… 13. Họ sống không chạy theo những ham muốn lạc thú thế gian như chạy theo ăn uống cầu kỳ, ngủ nghỉ, yêu đương, chơi bời, danh lợi, không tranh đua hơn thua đúng sai phải trái với đời, với người. Họ thích sống đời sống ẩn dật, buông xả. Ăn để sống chứ không phải sống để ăn, ngủ nghỉ rất ít. Không chơi bời, tham vui, không coi trọng đồng tiền và danh vọng, … 14. Họ không coi trọng cái thân vì họ biết rõ nó là bất tịnh, hôi thúi, biến hoại, tạm bợ. Do vậy họ không chú trọng làm đẹp trang điểm, lo cho nó, giữ gìn nó, bảo vệ nó, ai đụng vào thì ăn thua đủ. Họ không sợ bệnh, sợ chết, không sợ người khác làm hại đánh giết, không giận dữ khi ai xúc phạm, chê bai chỉ trích, nói xấu, đổ oan v.v... Ngược lại, họ càng yêu thương những người hại mình nhiều hơn và luôn luôn sẵn sàng tha thứ, khoan dung, độ lượng. 15. Trước tất cả mọi việc xảy đến, tâm họ thản nhiên bất động, thanh thản an lạc và vô sự dù thành hay bại, vui hay buồn, hạnh phúc hay đau khổ, khen hay chê, vinh hay nhục. 16. Họ không để tâm dính mắc vào những thương nhớ ích kỷ ràng buộc giữa những người thân thuộc quen biết, bởi vì họ hiểu những thương nhớ ích kỷ đó chỉ làm cho con người đau khổ thêm. "Càng mong nhớ nhớ thương thì càng đau khổ nhiều". Thay vào đó nên trải rộng lòng yêu thương ra khắp mọi người và muôn loài vạn vật, xem ai ai cũng là người thân quen như gia đình mình vậy. 17. V.v…
Tóm lại, nhân cách thánh nhân không chỉ dừng lại vài điểm chính ở trên mà con rất rất nhiều. Cái đáng chú ý nhất là họ cũng từ những con người bình thường mà ra. Những nhân cách đó ai ai cũng có thể tự trau dồi được, chứ không phải do tự nhiên sanh ra đã có hay do thần thánh nào ban tặng. Chính mỗi con người làm chủ cuộc đời của mình, chính mỗi con người tự tạo thiên đàng hoặc địa ngục cho chính mình chứ không ai khác, không ai có thể sắp đặt cho chính mình được. Chỉ cần sống đầy đủ những đạo đức đức hạnh không làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài vạn vật khác thì thiên đàng là của họ.Tất cả đều nằm trong tầm tay của con người.
Phi Mạnh
|