Vâng lời
cách sáng suốt và tự nhiên.
(Trích trong
‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Việc phối trí những đoạn
ký sự khác nhau trong bốn bộ Phúc Âm nêu ra những
vấn đề không thể đề cập ở
đây. Các thánh chép sử
trước hết không chú ý viết tiểu sử
Đức Giêsu và thuật lại theo
lối viết sử biến cố đã xảy ra ở Pa-lét-xti-na.
Các ông chỉ muốn là những nhân chứng.
Các ông làm chứng cho lòng tin của mình vào
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã chết và sống
lại, Đấng Cứu Tinh. Những sự
kiện do các ông thuật lại cho dù có chính xác đến
đâu, bố cục hợp lý đến đâu,
điều đó đối với các ông không quan trọng
lắm. Vì thế, tuy cùng đặt cơ sở trên 1
nền chung không thể chối cãi,
mỗi thiên ký sự lại mang những mầu sắc khác
nhau cho thấy vẻ độc đáo trong cung điệu
mỗi thánh chép sử làm chứng cho niềm tin của
mình. Chúng ta cần nhớ thế khi muốn
so sánh những ký sự nói về cuộc Thương Khó.
Đoạn
văn suy niệm hôm nay cho thấy những nét nổi
bật sau:
1) Ngay
phần đầu, thánh Maccô thuật lại mấy sự
kiện cốt nhấn mạnh vào sự vâng lời cách
tự nguyện và sáng suốt của Chúa Giêsu dấn thân
vào cuộc Khổ nạn của Người.
Chúa biết Chúa đi về đâu. Chúa nói ra điều đó trong dịp
người phụ nữ đập vỡ bình bạch
ngọc và đổ dầu thơm trong
bình lên đầu Người. Trước
khi xảy ra, bà đã lấy thuốc thơm
ướp xác Ta, chờ khi liệm táng. Chúa
biết rằng ngày hôm sau Chúa sẽ chết.
Sự quyết tâm của Chúa không
phải là việc dễ làm. Vâng lời Cha là tự chinh phục
bản thân. Chúa trải qua một cơn hấp
hối trong vườn Ghetsêmani, cuối cơn khắc
khoải Người nói một lời ngắn và dứt
khoát: Thế là xong, có nghĩa là Người đã quyết
rồi, giao kết xong rồi, ưng thuận rồi.
Chúa lưu ý những kẻ đến
bắt Chúa rằng nếu Người muốn,
Người có thể vô hiệu hóa bọn chúng những
đã từng làm trong bao lần giảng dạy ở
Đền thờ và những nơi khác. Chúa nhấn mạnh, Người
để chúng bắt giữ chỉ vì Người đã
làm theo ý Thiên Chúa như loan báo trong Kinh
Thánh. Đoạn Phúc Âm tiếp đó
đưa ra những ví dụ khác được thánh Maccô
nêu lên và làm chứng, đó là sự vâng lời tự
nguyện của Chúa.
2) Thánh
chép sử lưu ý chúng ta đến sự cô đơn
của Chúa Giêsu. Người bị cô lập, bị tách rời dân
chúng. Mấy ngày trước đây, chính
dân đó đã hoan hô Người. Những
thày tư tế và ký lục chuẫn bị chọn giờ
hành động và sắp đặt thời gian để
vận động quần chúng. Quần
chúng dễ thay lòng đổi ý (cái gọi là “dư
luận” được uốn nắn do những nhà
kỹ thuật về khoa điều khiển dân ý, dân
tình). Dân chúng đã bỏ Chúa.
Trong
cơn hấp hối, Chúa cô đơn. Hơn ai hết,
Chúa biết rõ các môn đệ Người là những
kẻ bất lực chẳng thể đem đến
một sự giúp đỡ nào cho Người, nhưng dù
sao nếu có họ lúc đó thì cũng là một niềm an ủi. Thế mà họ
ngủ.
Chúa chỉ có một mình trong khi dấn
thân. Lúc Chúa dấn thân
bằng cách nộp mình cho toán quân dữ đến bắt
Người, các môn đệ có 1 dịp hành động theo lời cam kết của Phêrô mà tất
cả các ông đã tán đồng: Dù có phải chết vì Thày, con sẽ chẳng bỏ
Thày. Ấy vậy mà, theo thánh Maccô ghi
lại, họ bỏ Chúa, tất
cả trốn hết.
Chúa một mình giữa pháp đình. Không một ai dám tới
làm chứng gỡ tội cho Người. Chúa Giêsu
đã muốn biết thế nào là nỗi chua xót
đắng cay của tình bạn khi mà 1 người
“bạn” vì sợ hay vì tư lợi không muốn bị liên
can, không muốn bị “dính”, để bỏ rơi
Người mà lẽ ra y phải cứu giúp.
Chúa một mình trên thập giá. Cả những kẻ trộm
cướp cũng thóa mạ Chúa (tuy rằng sau đó
một kẻ trong bọn này sẽ ăn năn
trở lại). Một nỗi cô đơn tột bực:
Chúa ơi, Chúa ơi, sao Chúa
bỏ con?
Sự
vâng lời tự nguyện của Chúa, một sự vâng
lời thuần khiết và cô đơn,
có lẽ đấy là phương thế Chúa Giêsu dùng
để sống cách thấm thía tấn bi kịch của
số mệnh chúng ta.