Google Search
Local Search
|
|
Bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Thái Bình
|
Bổ nhiệm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Xin mời nghe proshow "Lời Gọi Fatima" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
Xin chia sẻ cùng quí cha, thày và anh chị proshow "Danh Thánh Đức Maria" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Đặc Tính Ngôn Sứ Huấn Dụ Xã Hội Của Giáo Hội ( 1978-2005).
|
|
Thứ Năm, Ngày 29 tháng 3-2012
|
Đặc tính ngôn sứ Huấn Dụ
Xã Hội của Giáo Hội ( 1978-2005).
Với triều đại giáo hoàng
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II ( 16.10.1978 - 02.04.2005),
sau thời gian rất ngắn ngủi của ĐTC Gioan Phaolồ I ( 26.08 -
28.09.1978), Giáo Hội sống trong thời gian loan báo ngôn sứ
về những gì liên quan đến " vấn đề xã hội ".
ĐTC Gioan Phaolồ II
không những nhận thức và
xác nhận những hiểu biết không lâu trước đó về " vấn đề xã
hội " ( trong thời Công Đồng Vatican II, như chúng ta đã có
dịp đề cập), nhưng ngài còn khai triển thành một sứ điệp mới,
tiếp nối những gì Giáo Hội đã huấn dạy trước đó, mở ra các chân
trời của ngàn năm thứ ba Ki Tô giáo sắp đến.
Vấn đề xã hội
từ nay đã vượt khỏi tầm mức lượng số của địa cầu, mà trong đó
Giáo Hội đã lo lắng mở rộng các cuộc đối thoại ( dĩ nhiên là
đối thoại với các chủ thể ( persone ) sai lạc, vì bị
các chủ đề ( doctrine) lệch lạc, không tưởng mớm ý cho, chớ
không bao giờ Giáo Hội chấp nhận
các chủ đề sai lạc , phi lý và vô
nhân tính ).
Vấn đề xã hội
đã vượt khỏi tầm mức lượng số, để
liên quan đến vấn đề "
phẩm chất đáng ra phải có của một cuộc sống xứng đáng với phẩm
giá con người ".
Các cơn khủng hoảng mất
thăng bằng và các vấn đề liên hệ đến phẩm chất vừa nói đã mở
rộng ra đến độ vượt lên cả các biên giới vật chất thế giới và
đụng chạm thẳng đến những gì liên hệ đến chính đời sống con
người, khiến cho không ai có thể định lượng được.
Vấn đề xã hội
là vấn đề hoà bình và có
tầm vóc toàn cầu về phẩm chất cuộc sống hay là chết của con
người và đến môi sinh ( habitat ).
Trước tầm mức liên hệ
thiết yếu đến phẩm chất như vừa nói, Giáo Hội có những lời chỉ
dẫn của mình có thể nói lên ( ĐTC Gioan Phaolồ II,
Sollecitudo rei socialis ( 30.12.1987), n 41, in EV X/2667),
bởi lẽ những vấn đề liên quan đến các giá trị và các định hướng
luân lý- tôn giáo là chính là lãnh vực thuộc thẩm quyền của Giáo
Hội.
ĐTC Gioan Phaolồ II cho biết:
- "
Không phải phận vụ của Giáo Hội là phân tích một cách khoa học
các thay đổi xã hội. Trái lại Giáo Hội xác tín rằng phận vụ của
mình là góp phần định hướng các thay đổi đó, để có được một tiến
bộ thực hữu cho con người và cho xã hội " ( ĐTC Gioan Phaolồ II,
Laborem excercens ( 14.09.1981), n. 3, in EV VIII/1392).
Như vậy, những vấn đề mật thiết
liên hệ đến bản tính con người như vừa kể, thuộc lãnh vực luân
lý và tôn giáo, cho phép Giáo Hội đưa những lời hướng dẫn của
mình cho tất cả không phân biệt, vượt lên trên các khác biệt văn
hoá, vượt lên trên các hệ thống kinh tế, chính trị và xã hội.
Bởi đó ngay nay " Huấn Dụ Xã
Hội của Giáo Hội " ai cũng có thể hiểu được và hội nhập,
chia xẻ được, bởi lẽ là những lời chỉ dẫn liên hệ mật
thiết đến bản tính con người, có cuộc sống cho ra người,
người theo chủ nghĩa công sản cũng như theo tân tự do chủ
thuyết, dân ở các xứ tiến bộ cũng như người ở các xứ trên đà
phát triển, để có được một cuộc sống nhân bản trong những
năm 2000 mà chúng ta đang sống.
Qua các Thông Điệp của ĐTC
Gioan Phaolồ II, chúng ta thấy được đặc tâm của Giáo Hội đã
chuyển bước sự chú ý từ các hệ thống chính trị và kinh tế, đến
chính con người, từ phương diện lượng số đến lãnh vực phẩm chất.
Ngày nay mối lo âu đặt trọng tâm
của các Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội đó là làm thể nào
- cứu vản lại được các giá trị
đang bị khủng hoảng ( đời sống, gia đình, việc làm ),
- cung cấp một linh hồn luân lý
cho một xã hội mới ( làm chính trị để phục vụ con người và phục
vụ công ích, chớ không phải để lo cho đầy túi cá nhân và phục vụ
cho Đảng và Nhà Nước),
- đưa đến cho con người ,một
viễn tượng đầy hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn cho cả nhũng ai
nghèo khổ trong một xã hội với cuộc sống sung mãn.
Nói một cách ngắn gọn, Huấn Dụ
Xã Hội của Giáo Hội ngày nay là những gì Giáo Hội huấn dạy
qua động tác đọc " các dấu chỉ thời đại " dưới ánh sáng
Phúc Âm,
- để đón nhận được ý nghĩa lịch
sử
- và từ đó đặt nền tảng cho một
cuộc sống văn minh tình thương, cùng với tất cả những người
thành tâm thiện chí.
Giáo Hội hiện đại đang sống với sứ
mạng ngôn sứ của mình. Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội hiện
đại, trả lời lại cho những thử thách của thời đại chúng ta, căn
bản là lời loan báo tiên tri của Phúc Âm về phẩm chất của đời
sống, việc làm và đức bác ái của con người đối với anh em mình.
Diễn từ của Đức Hồng Y Joseph
Ratzinger được tuyển chọn ( 19.04.2005) kế vị ĐTC Gioan Phaolồ
II càng xác nhận hơn nữa những gì chúng ta vừa đề cập đến.
1 - Phúc Âm của đời sống.
Thử thách nguyên cội của cơn khủng
hoảng về phẩm chất vừa đề cập là chủ đề chính yếu của Huấn Dụ
Xã Hội của Giáo Hội. Đó là huấn dụ nhận biết đời sống con
người có giá trị tuyệt đối, không thể nhân nhượng, tương đối hoá
đối với bất cứ một giá trị nào khác.
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội xác
nhận rằng mạng sống con người không thể đem so sánh với những
giá trị nào khác cả đối với những tài sản quan trọng như sức
khoẻ, các tiện nghi cho đời sống, lợi thú kinh tế, nghiên cứu và
tiến bộ khoa học.
Đối với những lợi thú vừa kể,
chúng ta xác nhận được thường khi mạng sống con người bị đặt vào
hạng thứ, trong cách hành xử của thế giới ngày nay.
Dầu cho tâm trạng của thế giới có
như vậy, nhưng Giáo Hội " không thể bỏ rơi con người ".
Đó là những gì ĐTC Gioan Phaolồ II đã lớn tiếng nói lên
ngay cả trong thông điệp đầu tiên của ngài,
Thông Điệp Redemptor hominis:
- "
Con người là con đường tiên khởi
mà Giáo Hội phải bước đi để chu toàn sứ mạng của mình, con người
là con đường trước tiên và căn bản của Giáo Hội " ( ĐTC Gioan
Phaolồ II, Redemptor hominis ( 04.03.1979),n. 14,in EV VI/1209).
Bởi đó đặc tính đầu tiên Huấn
Dụ Xã Hội của Giáo Hội ngày nay là bảo vệ phẩm giá tối
thượng tuyệt đối của con người. Mạng sống con người không thể
trở thành một giá trị thứ yếu trong bất cứ trường hợp nào.
Chuyên tâm của Huấn Dụ Xã Hội
của Giáo Hội ngày nay là đào tạo một lương tâm mới, tác động
không mệt mỏi để thiết lập lại một sự đồng thuận phổ quát về đời
sống con người, như là giá trị tuyệt đối của luân lý.
Bởi đó các Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội luôn luôn nhấn mạnh, như chưa bao giờ xảy ra trong
quá khứ, về quyền được sống như là nguyên tắc và nền tảng
của tất cả mọi quyền khác: có quyền được bảo đảm tự do
lương tâm, tự do ngôn luận, tự do hội họp để làm gì, nếu giá trị
tuyệt đối của quyền được bảo toàn mạng sống bị chối bỏ?
Thực chất của vấn đề là con người
ngày nay với ý nghĩa về
Thiên Chúa và về Thiên Chúa duy nhứt, tuyệt đối, nền tảng giá
trị tuyệt đối của con người, của phẩm giá con người, của quyền
tự do và các quyền của mình.
Lịch sử đã từng chứng minh rõ ràng
ý nghĩa về Thiên Chúa và ý nghĩa về con người, hoặc là cùng đi
chung với nhau, hoặc là cùng bị tha hóa chung nhau:
- " Một khi ý nghĩa về Thiên
Chúa bị mất đi, ý nghĩa về con người cũng bị hăm doạ và ô nhiểm
" ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Evangelium vitae ( 25.03.1995), n. 22.,
in EV XI/2234).
Từ đó tạo ra " cái vòng lẩn
quẩn " tai hại:
- " mất đi ý nghĩa về Thiên
Chúa, con người cũng có khuynh hướng đánh mất đi ý nghĩa về con
người, về phẩm giá và giá trị đời sống của con người. Từ đó có
thể dễ dàng bước đến việc vi phạm có hệ thống lề luật luân lý (
...), tạo ra sự hiện diện một loại tiến trình tối tăm hoá khả
năng nhận ra sự hiện diện đời sống và cứu độ của Chúa " ( id.,
n. 21, in EV XIV/2231).
Hậu quả của những gì vừa kể, đó là
đời sống mất đi ý nghĩa của nó và cũng từ đó mất đi những gì là
phẩm chất cá biệt làm cho đời sống " người cho ra người "
: con người rơi vào không thể tránh được duy vật chủ nghĩa
đê tiện hoá con người, mà ai trong chúng ta cũng biết:
- " Những giá trị của sụ
hiện hữu con người bị đổi thành những giá trị có của cải. Mục
đích duy nhứt có ý nghĩa, đó là làm sao đạt được sự phồn thịnh
vật chất. Cái gọi là " phẩm chất của đời sống " được giải thích
bằng cách dành ưu tiên hay hoàn toàn cho hiệu năng kinh tế, tiêu
thụ loạn xạ, sắc đẹp và hưởng thụ thể lý, quên đi những chiều
kích sâu đậm hơn - liên hệ, thiêng liêng và tôn giáo - của cuộc
sống " ( id., n.25, in EV XIV/2239).
Điều vừa kể giải thích hiện trạng
nghịch lý mà thế giới hiện đại đang gặp phải:
- " Một đàng là những lời
tuyên bố khác nhau về các quyền của con người ( ...) họ cho rằng
hiện có sự xác nhận cở tầm mức thế giới tinh thần cảm nhận luân
lý chú tâm hơn nhận biết giá trị và phẩm giá của mỗi con người
như là người, không phân biệt phái giống, quốc tịch, tôn giáo,
chính kiến, cấp bậc xã hội. Nhưng đàng khác, đối với những lời
tuyên bố cao qúy đó rất tiếc lại có, trên thực tế, một sự khước
từ thảm đạm đối chọi lại ", và ĐTC Gioan Phaolồ II kết luận,
" từ xã hội cùng " chung sống với nhau ", các thị xã của chúng
ta có nguy cơ trở thành xã hội của những kẻ bị loại ra bên ngoài
" ( id., n. 18, in EV XIV/2222).
Trước cơn khủng hoảng thảm đạm về
ý nghĩa và phẩm chất con người đối với cuộc sống, Giáo Hội ngày
nay với Huấn Dụ Xã Hội của mình đáp ứng lại như là một
ngôn sứ.
Giáo Hội nhắc nhớ rằng con người
được kêu gọi để có một cuộc sống trọn hảo, vượt khỏi các tầm mức
trần thế, kinh tế, xã hội và chính trị, để rộng mở mình ra tham
dự vào chính đời sống Thiên Chúa.
Đó là vấn đề " nhân bản luận
".
Giáo Hội không khiếp đảm trước
thái độ khước từ của những ai cho rằng thái độ của Giáo Hội là
thái độ lỗi thời. Bởi vì Giáo Hội
- " biết rằng Phúc Âm nầy
của đời sống, được Chúa trao cho Giáo Hội, có tiếng vang sâu đậm
trong tâm hồn mỗi người, tín hũu cũng như những ai không tin,
bởi vì Phúc Âm vượt lên trên muôn lần các nỗi mong đợi, đáp ứng
lại tiếng vang đó một cách lạ thường. Mặc cho các khó khăn và
nhiều nghi vấn, mỗi con người thành thật rộng mở mình ra cho
chân lý và sự thiện, với ánh sáng của lý trí và dĩ nhiên không
thiếu ân sủng được ban cho trong thầm kín, có thể đạt đến nhận
ra được trong luật tự nhiên được ghi khắc vào tâm khảm mình giá
trị thiên thánh của đời sống con người từ lúc tiên khởi cho đến
thời điểm cuối cùng và xác nhận được rằng mỗi người đều có quyền
thấy được quyền tối thượng đó của mình phải được tôn trọng. Cuộc
chung sống của nhân loại và của chính cộng đồng chính trị được
đặt nền tảng trên sự nhận biết vừa kể " ( id., n.2,in EV
XIV/2170).
Điều vừa kể giải thích tại sao
Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội trong những thập niên cuối cùng
nầy nhấn mạnh rất nhiều đến gia đình, đến việc cần
thiết phải bắt đầu giải quyết cơn khủng hoảng về giá trị cuộc
sống bằng cách giải quyết cơn khủng hoảng gia đình:
- " Cần phải trở lại nhận
biết gia đình như là thánh điện của đời sống. Thật vậy,
gia đình là thiên thánh; là nơi mà trong đó đời sống, ơn Chúa
ban cho, có thể được đón nhận một cách thích hợp và bảo vệ chống
lại bao nhiêu cuộc tấn công mà đời sống phải đối kháng, và là
nơi mà trong đó đời sống có thể được triển nở theo các đòi hỏi
để có được một cuộc tăng trưởng nhân loại thích đáng. Chống lại
cái gọi là văn hoá của sự chết, gia đình là nơi chốn của văn hoá
sự sống " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Centesimus annus ( 01.05.1991),
n. 39, in EV XIII/199).
( Xem thêm Phúc Âm của sự sống,
cfr.Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ( Compendio della
Dottrina sociale della Chiesa), n.231).
2 - Phúc Âm của việc làm.
Bối cảnh kết thúc thảm đạm của xã
hôi chủ nghĩa thực tế sai lầm, không tưởng chưa phải là chiến
thắng của tư bản chủ nghĩa.
Nếu lịch sử đã chứng minh đường
lối của xã hội chủ nghĩa là lối suy tư sai lầm, phi lý, không
tưởng ( utopia, Hy Lạp, " u ": không; " topos ": nơi chốn
= tức là ý thức hệ không thể thực hiện được ở bất cứ nơi nào
trên thế giới), điều đó không có nghĩa là hiện nay, sau khi
ý thức hệ xã hội chủ nghĩa không tưởng đã kết thúc, cũng đã biến
mất các mối tuơng phản bất công của tư bản chủ nghĩa, mà từ đó
xã hội chủ nghĩa được nảy ra.
Nếu đứng trước những đống gạch vụn
của bức tường Bá Linh sụp đổ, tư bản chủ nghĩa có thể chứng minh
được có khả năng sản xuất và phân phối mức giàu có, nhưng trong
tư bản chủ nghĩa còn có một cái gì đó bất ổn, sai lầm. Đó là
ngay ở các Quốc Gia Tây Phương, con người rất nhiều lần bị tước
bỏ đi phẩm giá và trở thành nô lệ cho các nhu cầu không thiết
thực của mình, tạo nên bận tâm bực bội, bất đắc chí và thúc đẩy
đến hối lộ, bè phái, bất kể công lý.
Giáo Hội nhận biết vai trò chính
đáng của lợi nhuận, như là dấu chỉ mức độ tiến trình tốt đẹp của
xí nghiệp. Nhưng lợi nhuận không phải là dấu chỉ duy nhứt, động
lực chính yếu của phát triển và sản xuất,
- " nếu các tiêu chuẩn kế
toán kinh tế đều hoàn toàn tốt đẹp, nhưng cùng chung đó có những
con người, là thành phần qúy giá của tài sản xí nghiệp lại bị đê
tiện hoá và phẩm giá của mình bị xúc phạm " ( ĐTC Gioan Phaolồ
II, Centesimus annus ( 1991), n. 35, in EV XIII/187).
Những Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội gần đây đã cho biết lý do sâu xa tạo ra những tình trạng
nghịch thường trong tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại, mặc cho xã
hội chủ nghĩa đã phá sản, đó là sự kiện việc làm của con người (
cũng như đời sống của con người ) đã bị
tư bản chủ nghĩa đánh mất đi giá
trị đích thực của nó.
Ở đây cũng vậy, chúng ta đang đứng
trước cơn khủng hoảng về giá trị, về ý nghĩa, được thể hiện ra
trong hiện trạng đổ vở và đối nghịch bất tự nhiên giữa con người
và động tác sáng tạo của việc làm, giữa việc làm và tư bản, của
cải, giữa người làm việc và phẩm chất của đời sống mình.
Từ thái độ chán ngán tâm lý đối
với công việc thường nhật đến các hình thức đàn áp của
tân chủ nghĩa thuộc địa kinh tế quốc tế, việc mất đi ý nghĩa
việc làm của con người chắc chắn là một yếu tố căn bản của cơn
khủng hoảng hiện tại, bên cạnh việc mất đi ý nghĩa của cuộc
sống.
Các câu hỏi được đặt ra về làm
việc đươn kết với những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống và sống
trong hoàn cảnh không có gì hứng khởi như vậy.
Biết bao nhiêu người làm việc chỉ
thấy việc làm là đinh mệnh khó khăn đầy lao lực, việc làm chỉ là
phương tiện để kiếm sống, hơn là những gì tốt đẹp có thể làm cho
mình triển nở và giúp cho xã hội phát triển, tức là giúp cho
anh em đồng bào và đồng loại của mình có được một cuộc sống tiện
nghi hơn, thoải mái hơn, tự do hơn, xứng đáng với phẩm giá con
người hơn !
Dĩ nhiên, ngày nay không ai có ý
nghĩ ngồi thảo ra trên lý thuyết một khuôn mẫu xã hội - kinh tế
mới, thay thế cho những ý thức hệ không tưởng đã phá sản thất
bại, dầu vậy chúng ta nghĩ rằng đây là thời điểm cần phải đặt
nền tảng cho khuôn mẫu lý tưởng đó.
Nhãn quang phẩm chất và tìm kiếm ý
nghĩa đó là đặc tính cá biệt Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội.
Giáo Hội xác tính rằng mình có thể hiến tặng cho nhân loại chìa
khoá giải đáp thoả đáng, bằng cách loan báo cho tất cả
Phúc Âm của việc làm:
- " Nếu giải pháp, hay đúng
hơn giải pháp tuần tự vấn đề xã hội, là vấn đề vẫn tiếp tục hiện
diện càng lúc càng phức tạp hơn, giải pháp đó cần phải được tìm
kiếm trong định hướng làm sao cho đời sống xứng đáng với con
người hơn, hiểu như vậy việc làm của con người có tầm quan trọng
nền tảng và quyết định " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Laborem exercens
( 14.09.1981), n. 3, in EV VII/1398).
Tiếp tuc hành trình theo con đường
con người, đã được khởi sự ngay từ thời gian khởi thủy của triều
đại giáo hoàng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II nhắc nhở
cần phải đặc tâm chú ý đến việc làm, như là phương
diện nền tảng của đời sống con người, chính trong lúc cuộc cách
mạng kỷ thuật đang thay đổi sâu đậm đến chu kỳ sản xuất, hoặc
đến các liên hệ việc làm đối với con người.
Giáo Hội ý thức rằng
- " hiện nay chúng ta đang ở
trước thềm các phát triển mới về kỷ thuật, kinh tế và chính trị,
mà theo nhiều người có kinh nghiệm, những phát triển mới đó sẽ
có ánh hưởng đến thế giới việc làm và sản xuất không có gì kém
hơn cuộc cách mạng kỷ nghệ của thế ky vừa qua " ( id., n.1,in EV
VII/1391).
Trước trạng huống vừa kể,
ĐTC Gioan Phaolồ II kết luận,
- " cần phải gắp rút khám
phá ra những ý nghĩa mới về việc làm của con người và đề thảo ra
những bổn phận mới cần phải đáp ứng giải quyết " ( id., n.2, in
EV VII/1393).
Và đây là ý nghĩa đích thực việc
làm của con người, khối nhân cội của Phúc Âm việc làm, được chứa
đựng trong nguyên tắc sau đây:
- " Nền tảng để xác định giá
trị việc làm của con người, trước tiên không phải là loại việc
làm nào mà con người thực hiện, nhưng sự việc là người đứng ra
thực hiện việc làm đó là một con người. Căn nguyên của phẩm giá
việc làm cần phải được tìm ra, không phải dựa trên tầm mức đối
tượng, mà trên tầm mức chủ thể ", nói một cách ngắn gọn,
" việc làm có mục đích là làm cho con người chớ không phải con
người chỉ nhằm cho mục đích làm việc " ( id., n.6, in EV
VII/1414).
Dưới ánh sáng Phúc Âm của việc làm
vừa kể, chúng ta có thể hiểu được tại sao cả tư bản chủ nghĩa,
chớ đừng nói gì xã hội chủ nghĩa, cũng không thể là giải pháp
thoả đáng.
Cần phải vượt ra bên ngoài nhãn
quang thuần kinh tế và nhận biết rằng chủ thể đích thực của tiến
trình sản xuất chính là con người.
Trên thực tế, điều đó có nghĩa là
việc làm sẽ có được ý nghĩa đích thực và phẩm giá siêu việt của
mình, chỉ khi nào tổ chức xã hội con người quan tâm đến ba
phương diện nền tảng phải có của việc làm.
a) Trước tiên việc làm cần phải
luôn luôn được nhìn nhận như là chính một
động tác của chính con người:
- "
Như là người, con người là chủ thể của việc làm. Như là con
người, người làm việc thực hiện các động tác liên quan đến tiến
trình làm việc; các động tác đó, không tùy thuộc vào nội dung
đối tượng của chúng, tất cả đều lợi ích để làm triển nở thành
đạt nhân tính của người làm việc " ( id.).
b) Kế đến cần phải ý thức rằng
việc làm của con người là một
động tác sáng tạo
- " luôn luôn là nguyên cớ
hiệu lực tiên khởi, trong khi đó thì tiền bạc, tư bản, cùng
chung với những phương tiện sản xuất khác, vẫn chỉ là một phương
tiện ". Tiền bạc, tư bản
" được việc làm của con người sinh
ra và mang nơi mình các ấn tín của việc làm con người " ( id.,
n. 12, in EV VII/1439).
Đặc tính ưu tiên nặng nhọc của con
người trên tiền bạc,tư bản và trên cả tiến trình sản suất được
Phúc Âm của việc làm nhấn mạnh, với ý thức rằng
- " qua việc làm của mình,
con người tham dự vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa " (
id., n. 25. in EV VII/1499) .
Không những vậy. Phúc Âm của
việc làm còn làm cho chúng ta biết mồ hôi và mệt nhọc,
bạn đồng hành bất khả phân ly của mỗi động tác con người, thay
vì làm cho con người xấu xí hơn, chúng làm cho con người trở
thành cộng sự viên của Chúa Ki Tô, " Con Người của việc làm "
tuyệt hảo (id., n. 26, in EV VII/1504-1510).
c) Bởi lý do đó, chúng ta còn
có phương diện thứ ba của việc làm cần đặc tâm lưu ý: đó là việc
làm tự bản thể của mình là một động tác liên đới ,
liên đới giữa các người làm việc với nhau, cũng như liên đới với
những người khác.
Liên đới, như là những gì thoát
xuất từ ý nghĩa đích thực của việc làm con người, không thể phải
là liên đới để chống lại ai, liên đới tiêu cực, mà tự bản thể
của mình, liên đới là liên đới với và cho ai, liên đới tích cực
và xây dựng:
- " Thật vậy, một sự liên
đới để chống báng đối nghịch với người khác, liên đới đó có thể
có được lý chứng nào để biện giải cho, liên đới để chống những
người khác ? ( ...) Sự liên đới có nguồng gốc và nghị lực của
mình trong bản thể việc làm của con người, tức là trong địa vị
thượng đẳng của con người trên các sự vật, sẽ là sự liên đới
biết tạo nên các phương tiện để đối thoại và cộng tác " ( ĐTC
Gioan Phaolồ II, Discorso alla 68° sessione della Conferenza
iternazionale del lavoro ( Ginevra, 15.06.1982), in Osservatore
Romano ( 16.06.1982).
Như vậy Huấn Dụ Xã Hội của Giáo
Hội, được đặt lên phía bên kia xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa. Sau khi đã tìm được trong việc làm chìa khóa thiết yếu để
giải quyết " vấn đề xã hội " , cho thấy rằng dưới ánh
sáng Phúc Âm của việc làm , chúng ta có thể trả
lại cho việc làm của con người ý nghĩa thiết thực của nó và đặt
nền tảng trên việc làm một nền liên đới mới, mở rộng ra để có
thể gặp gỡ được mọi người thành tâm thiện chí.
(Tài liệu học hỏi thêm, Phúc
Âm của việc làm, cfr. n. 269, Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội).
3 - Phúc Âm của bác ái.
Bác ái là chất xi măng mà người
tín hữu Chúa Ki Tô pha trộn vào trong việc kiến tạo xã hội con
người:
- " Đức bác ái xây dựng" ( I
Cor 8, 1), nói như Thánh Phaolồ.
Và Công Đồng Vatican II chú giải:
lời Chúa mạc khải cho chúng ta rằng
- " Thiên Chúa là bác ái và
dạy chúng ta rằng lề luật nền tảng sự thiện hảo của con người,
và vì đó cũng là nền tảng của việc hoán chuyển thế giới, là giới
răn mới về đức bác ái. Bởi đó ai tin vào lòng bác ái của Thiên
Chúa, là những người được Thiên Chúa bảo chứng cho rằng con
đường bác ái được rộng mở cho tất cả mọi người và những cố gắng
nhằm thực hiện tình huynh đệ phổ quát cho tất cả không phải là
những động tác hư không " ( Gaudium et spes, n. 38, in EV
I/1437).
Bác ái Ki Tô giáo vượt lên trên cả
lòng nhân ái ( philantropie) thông thường.
Thật vậy bác ái Ki Tô giáo không
phải chỉ là tuân giữ lề luật vàng ngọc:
- " Những gì anh em muốn
thiên hạ làm cho anh em, cả anh em, anh em cũng hãy làm cho họ "
( Mt 7, 12); vượt lên cả trên giới răn cỗ xưa:
- " Ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình " (Mt 22, 39).
Như vậy, điều quan trọng là xác
nhận rõ ràng bản thể " mới " và siêu nhiên của đức bác ái
Ki Tô giáo:
- " Anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em " ( Jn 15, 12).
Qua câu Phúc Âm vừa trích dẫn, đức
bác ái Ki Tô giáo là yêu thương người khác cũng bằng chính tình
yêu thương siêu nhiên của Thiên Chúa, đang ở trong mỗi người tín
hữu Chúa Ki Tô chúng ta.
Đức bác ái đích thực là nhân chứng
có khả năng làm cho người khác thấy được Thiên Chúa là Đấng vô
hình:
- "
Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu
thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta và tình yêu của
Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo " ( 1 Jn 4, 12).
Lời huấn dạy nầy của Phúc Âm, được
xác nhận qua hai ngàn năm lịch sử, giải thích tầm quan trọng
quyết định của Huấn Dụ và cho thấy tại sao Giáo Hội liên kết đức
bác ái với sứ mạng nhân chứng khả tín rao giảng Phúc Âm:
- "
Bác ái ở tại trung tâm điểm của
Phúc Âm và là dấu chứng thúc đẩy tin vào Phúc Âm " ( CEI,
Evangelizzazione e testimonianza della carità, n. 9., in ECEI
IV/2727).
Điều vừa kể cũng cho thấy đức bác
ái là yếu tố không thể thiếu trong việc kiến tạo một xã hội nhân
bản, có tầm vóc xứng đáng với phẩm giá con người.
Điều đó cho thấy tại sao ĐTC
Gioan Phaolồ II cho biết:
- " các chủ đề và định hướng
nổi bậc được Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội lập lại trong những năm
gần đây, ở vị trí hàng đầu là " thái độ lựa chọn hay tình yêu
thương cá biệt dành cho ngưòi nghèo khổ ".
Thật vậy ngày nay, ĐTC còn nói
thêm:
- " vấn đề xã hội có tầm mức
lan rộng mà chúng ta nghĩ đến đã ảnh hưởng đến khắp thế giới,
tình yêu thương dành riêng vừa kể với những quyết định gợi ý cho
chúng ta, không thể không bao gồm đoàn lủ bao la dân chúng đang
đói khát, đang hành khất ăn xin, những kẻ vô gia cư, những ai
không có được một sự bảo đảm y tế nào, nhứt là những ai không có
một hy vọng nào về tương lai khả quan hơn (...) Cuộc sống hằng
ngày của chúng ta cần phải được đánh dấu bằng các thực thể đó,
cũng như các quyết định của chúng ta trong lãnh vực chính trị và
kinh tế " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Sollecìtudo rei socialis (
30.12.1987), n. 42, in EV X/2673s).
Dành tình yêu thương bác ái một
cách riêng biệt cho người nghèo khổ bắt buộc mở đường cho chủ đề
giải thoát Ki Tô giáo. Đó là giải thoát người nghèo khỏi mọi
hình thức nô lệ, nhứt là khỏi các hình thức " bần tiện hoá
mới " đối với con người và khỏi " các cơ cấu tội lỗi
" , tức là khỏi các tình trạng cơ chế bất công xã hội, trong đó
gánh nặng đổ ập xuống nhứt là trên các giới yếu thế, " dân
oan ", " phụ nữ và trẻ em gái vị thành niên phải bán thân nuôi
miệng", " dân đói khổ phải bị bốc lột xuất khẩu lao động ", "
dân đi đòi nhà bị trấn nước", " dân trước toà án bị bịt miệng
" chẳng hạn.
Như vậy loan báo Phúc Âm của đức
bác ái là đấu tranh để giải thoát người nghèo khổ, những người
bị bạo lực đàn áp và tất cả những ai bị bỏ rơi, phải sống bên lề
xã hội.
Thật vậy, đức bác ái, khi nào là
bác ái đích thực và công chính, không thể nào không hàm chứa nơi
mình sự kính trọng và động tác thăng tiến công lý.
Có ý nghĩa gì cung hiến cho một ai
đó một cách nhưng không có sự liên đới của mình, nếu đồng thời
không chấp nhận điều mà đáng lý anh ta phải có được do chính
quyền anh ta chính đáng được có?
Tranh đấu cho công lý, tự nó đã là
tình yêu thương, bác ái. Thái độ " lách sang rồi bỏ đi luôn "
của thầy tư tế và thầy thông thái luật, trước người
Samaritano bị kẻ cướp đánh nửa sống nửa chết bên đường,
không những là thái độ thiếu bác ái, mà còn là thái độ hèn hạ và
đồng lỏa với kẻ ác ( Lc 10, 29-37). Đó có phải là cách
hành xử chính đáng của người tín hữu Chúa Ki Tô hay không?
Bởi đó ĐTC Phaolồ VI cho biết việc
chuyên cần dấn thân cho công lý của người tín hữu Chúa Ki Tô
là
- " lượng độ tối thiểu của
đức bác ái " ( ĐTC Phaolồ VI. Discorso ai campesinos ( Bogotà,
23.08.1968), in L'Osservatore Romano ( 25.08.1968).
Nhưng xác định vừa kể vẫn chưa đủ,
ĐTC Gioan Phaolồ II nói thêm
- "
Công lý tự mình thôi, chưa đủ, mà
đúng hơn có thể đưa đến sự chối bỏ và tiêu diệt chính mình, nều
không có chỗ cho mãnh lực sâu xa hơn, đó là tình yêu thương, sắp
xếp thiết định đời sống con người trong các chiều kích khác nhau
của nó " ( ĐTC Gioan Phaolồ II, Dives in misericordia (
30.11.1980), n. 12, in EV VII/ 926).
Và ĐTC nói lên lý chứng tại sao
cần phải có bác ái, để làm cho công lý được thực hiện hoàn hảo:
- " Bình đẳng được hội nhập
vào cuộc sống qua công lý, chỉ giới hạn được áp dụng vào lãnh
vực các các thực thể khách quan và ngoại tại, trong khi đó thì
tình yêu thương và nhân từ làm cho con người được gặp nhau ,
giữa họ với nhau, trong chính giá trị của con người, với phẩm
giá cá biệt của con người " ( id., n. 14. in EV VII/ 941).
Như vậy cùng đồng hành với việc
loan báo Phúc Âm của bác ái, Huấn Dụ Xã Hội của
Giáo Hội chỉ dẫn cho chúng ta trong tổng kết giữa công lý và
liên đới hỗ tương phương thế quyết định để kiến tạo một xã hội
mới xứng đáng với tầm vóc con người.
Một đóng góp quyết định trong
chiều hướng vừa kể, chúng ta có thể tìm được trong Thông Điệp
của Đức Thánh Cha Benedictus XVI, Deus caritas est, trong
đó ĐTC kết luận:
- " Xác quyết cho rằng các
cấu trúc chính đáng làm cho trở thành vô nghĩa các động tác bác
ái thực tế là xác quyết che giấu bên dưới quan niệm vật chất về
con người; đó là tiền kiến cho rằng con người có thể sống chỉ
nhờ bánh mà thôi ( Mt 4, 4 cfr. Dt 8, 3). Đó là xác tín đê tiện
hoá con người và phủ nhận chính những gì cá biệt của con người
" ( ĐTC Benedictus XVI, Deus caritas est, ( 23.12.2005), n. 28).
(
Nghiên cứu thêm về Phúc Âm của
bác ái, cfr. n. 4-6, Tổng Lược Huấn Dụ Xã Hội của Giáo Hội ,
Compendio della dottrina sociale della Chiesa).
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài cùng ngày
Tin/Bài khác
|
|