LỄ CUNG HIẾN THÁNH
ĐƯỜNG HẢI ĐĂNG
GIÁO PHẬN BÀ RỊA
[Xin xem Video-Photo Phía Cuối]
Sáng ngày 17.3.2012, Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Trâm, Giám Mục
GP Bà Rịa đã long trọng cử hành Thánh
lễ Cung Hiến Thánh Đường Hải Đăng với sự hiện diện của 70 linh mục, đông đảo tu sĩ nam
nữ, hàng ngàn quan khách,
ân thân nhân
xa gần và cộng đoàn
dân Chúa giáo xứ. Để có niềm vui
tạ ơn hôm nay, giáo xứ
Hải Đăng đã trải qua bao biến cố thăng trầm để từng trang sử của giáo xứ in đậm dấu ấn tình yêu
quan phòng của Thiên Chúa và Mẹ
Maria.
Chuẩn bị cho ngày Lễ
Tạ Ơn, Cha Quản Xứ Phêrô Trần Thanh đã mời
tôi đến giúp tĩnh tâm 3 ngày cho
bà con giáo dân. Anh em cùng lớp, khóa III ĐCV Sài gòn đến
chúc mừng và chia vui.
Một người anh em xây
dựng được
một ngôi Nhà thờ mới,anh em cả
lớp hân hoan hòa chung
niềm vui tạ ơn. Những ngày sống tại Hải đăng, tôi cảm nhận sức sống thiêng liêng của
cộng đoàn nhờ mọi người hiệp nhất yêu thương cùng nhau xây dựng
giáo xứ.
Từ Long Hải qua hướng cầu Phước Tỉnh bắc ngang sông Cửa Lấp, Nhà thờ Hải đăng bề thế trên một ngọn đồi, tháp chuông cao vút
vươn lên giữa bình nguyên rộng lớn.
Cách đây hơn
40 năm, nơi đây là miền
đất hoang vu ít dấu chân
người. Miền
đất hoang sơ còn nhiều
quyến rũ
của thiên nhiên. Kể
từ khi Cha Giacôbê
Trần Mạnh Thắng đưa 100 giáo dân từ
La Ngà đến lập nghiệp khai phá miền
đất mới lập nên giáo
xứ Hải Đăng, Nhà thờ như ngọn hải đăng tỏa ánh sáng đức
tin mời gọi dân chúng khắp
nơi tụ về miền “đất lành chim đậu”. Dân chúng sống
bằng nghề đánh cá ven
sông và cửa
biển, họ còn làm rẫy,
làm rừng.
Đường đi khó khăn hiểm trở. Chưa có đường
giao thông và cũng chưa
có điện, chẳng có điện thoại.
Nhà Thờ cũng chỉ là mái
tranh vách lá. Nhà thờ nghèo
giữa cộng đoàn nghèo. Hiện diện, đồng hành, chia sẽ Tin mừng Chúa Giêsu với người nghèo để giúp họ thăng tiến là lý
tưởng sống
của Linh mục mở đường nơi miền đất “khỉ
ho cò gáy” này. Qua những thăng trầm lịch sử nay giáo xứ đã
lớn mạnh và là nơi
quy tụ nhiều đồng bào di dân
đến định
cư.
1.
Hơn 40 năm hình thành
và phát triển
Ngày 10/4/1970,
Cha Giacôbê Trần Mạnh Thắng (1921 – 1985) từ Phước
Tỉnh đem theo khoảng 100 giáo dân, mà nòng cốt là
số gia đình đã theo cha Giacôbê từ La Ngà
(Định Quán) về Tam Hiệp (Biên Hòa), sang bến
đò sông Cửa Lấp, đối diện với xã
Phước Tỉnh để lập nghiệp. Miền
đất này, sau đó đã được cha Giacôbê
đặt tên là Hải Đăng. Lúc đó, Hải
Đăng là một vùng đất hoang sơ, dân chúng
đi chài đánh cá ven sông Cửa Lấp và trồng lúa
để sinh sống.
Một thời gian sau Hải Đăng
đã được Đức Giám Mục Giuse Lê Văn
Ấn ký sắc lệnh thành lập giáo xứ
vào ngày 09 – 03 – 1970 (theo Kỷ yếu Giáo phận Xuân
Lộc 1974, trang 292).
Trong thời
gian mới thành lập, Cha Giacôbê và cộng đoàn đã làm
một Nhà thờ bằng cây, mái lợp tôn để
cử hành Thánh lễ. Đến năm 1974, gồm có 214
hộ gia đình, với 1.765 giáo dân (theo Kỷ yếu Giáo
phận Xuân Lộc 1974, trang 292).
Sau biến
cố 30/4/1975, Cha Giacôbê và một số giáo dân phân tán đi
nước ngoài và các nơi khác. Lúc đó, có cha Matthêu
Trần Trinh Khiết đến và ở lại chăm sóc
cộng đoàn, thì số giáo dân chỉ còn khoảng 600
người. Đến năm 1978, Cha Matthêu về Thủ
Đức.
Từ 1978 –
1992 là giai đoạn Giáo xứ Hải Đăng không còn
Linh mục trực tiếp cư ngụ tại Giáo xứ.
Mọi công việc về mặt tôn giáo do Cha Phaolô Vũ
Minh Trí, chánh xứ Nam Bình, hướng dẫn. Hàng tuần,
Cha Phaolô vào dâng lễ cho cộng đoàn vào ngày Chúa Nhật.
Trong thời
gian này, Cha Phaolô đã cùng với cộng đoàn xin
được phép để xây dựng một ngôi Nhà
thờ tường gạch, mái lợp tôn ximăng. Ngôi nhà
thờ này được sử dụng từ năm 1985
cho đến khi bị cơn bão Durian (5/12/2006) tàn phá.
Từ năm
1989 – 1992, giáo xứ có thầy JB. Nguyễn Văn Bộ
đến giúp xứ. Sau khi lãnh tác vụ Linh mục, Cha JB.
Nguyễn Văn Bộ được cử làm Chánh xứ
Hải Đăng từ 1993 – 1994. Trong suốt thời gian
giúp xứ với tư cách là Thầy Xứ và nhất là
từ khi làm Cha Xứ, Cha Gioan đã làm các chòi lá, để
có nơi cho các em học giáo lý, xây dựng lại các cơ
cấu của Giáo xứ: Giáo lý viên, Gia trưởng,
Hiền mẫu, Giới trẻ…
Từ năm
1994 – 2002, Giáo xứ được điều hành bởi
Cha FX. Nguyễn Văn Đạo. Trong thời gian này, Cha
Phanxicô đã dần đưa
mọi sinh hoạt của Giáo xứ vào nề nếp.
Về mặt cơ sở vật chất, cha Phanxicô đã
cho lát đá chẻ, mở rộng lối đi xung quanh Nhà
thờ, làm lại các chòi cho các em học Giáo lý, xây dựng
mới Nhà Hội và Nhà Xứ, trang bị lại hệ
thống âm thanh của Nhà thờ. Bộ mặt của Giáo
xứ đã khang trang hơn.
Từ năm
2002 – 2004, Cha Phanxicô được Đức Giám Mục
cử làm Chánh xứ Nam Bình, nhưng vẫn tiếp tục
Quản nhiệm Giáo xứ Hải Đăng.
Từ ngày
5/2/2004, Cha Phêrô Trần Thanh Sơn được
Đức Giám Mục Xuân Lộc bổ nhiệm làm Chánh
xứ Hải Đăng. Tiếp tục công việc
của các cha tiền nhiệm, cha Phêrô đã củng cố
và phát triển các đoàn thể trong Giáo xứ.
Sau cơn bão
Durian (5/12/2006), nhà thờ bị hư hại nặng, không
thể sửa chữa. Do đó, khi được sự
đồng ý của Đức Giám Mục Giáo phận Bà Rịa,
cha Phêrô đã cùng với cộng đoàn quyết tâm xây
dựng lại một ngôi Nhà thờ mới. Để
thực hiện được ước mơ này, toàn
giáo xứ đã nỗ lực cầu nguyện và đóng
góp với tất cả khả năng của mình.
Đồng thời, Giáo xứ cũng kêu gọi và đã
nhận được rất nhiều lời cầu
nguyện và sự giúp đỡ rất tận tình của
quý ân nhân xa gần, trong và ngoài nước.
Trong tiến
trình xây dựng ngôi nhà thờ mới, Giáo xứ đã xây
dựng một dãy nhà dài 65m, rộng 14m, hành lang mỗi bên
2m. Trong đó, 40m được được sử làm
Nhà thờ tạm, phần còn lại được sử
dụng làm phòng Hội, phòng ở cho khách, phòng Giúp lễ,
nhà máy lọc nước và nhà vệ sinh chung.
2.
Quá trình xây
dựng Nhà thờ và Nhà Xứ mới
Vào ngày
07/10/2008 Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Trâm, Giám Mục
Giáo Phận Bà Rịa đã về chủ sự thánh lễ
Làm Phép Viên Đá đầu tiên xây dựng Nhà thờ
Hải Đăng.
Sau đó, trong
những ngày đầu năm 2009 (02/02/2009), cộng
đoàn Giáo xứ bắt đầu công việc dọn
mặt bằng, cột sắt, và đúc các cọc bêtông
để ép xuống các chân móng Nhà thờ mới.
Ngày 20/3/2009 ép các cọc đầu tiên xuống chân móng
Nhà thờ mới.
Ngày 14/11/2009 bắt đầu phá các đầu cọc
cừ, để làm chân móng các cột đầu tiên.
Ngày 12/01/2010 đổ tấm sàn Cung Thánh
Ngày 01/02/2010 đổ tấm sàn Nhà thờ.
Ngày 26/5/2010 đổ kèo Nhà thờ
Ngày 07/07/2010 đổ kèo Cung Thánh
Ngày 22/7/2010 đổ mái Nhà thờ
Ngày 24/8/2010 đổ mái Cung Thánh
Sau đó, song song với công việc hoàn thiện Nhà
thờ, Giáo xứ tiến hành thi công ngôi nhà xứ mới.
Ngày 08/3/2011 bắt đầu ép cọc cừ cho móng nhà
xứ.
Ngày 29/3/2011 bắt đầu khai móng nhà xứ
Ngày 28/4/2011 đổ sàn nhà xứ
Ngày 02/6/2011 đổ mái và hành lang Nhà xứ
Ngày 22/10/2011 hoàn thành công trình Nhà xứ. Từ đây, Cha
Xứ bắt đầu sinh hoạt ở Nhà xứ
mới.
Qua hơn 3
năm xây dựng, cộng đoàn Giáo xứ Hải
Đăng đã được rất nhiều
người từ muôn phương yêu thương giúp
đỡ bằng nhiều cách, nên nay đã có ngôi Nhà thờ mới, Nhà
Xứ mới khang trang bề
thế. Đó là một món quà do tình
thương Thiên Chúa ban tặng qua sự rộng
lượng giúp đỡ của Quí Ân Nhân xa gần.
Được
thành lập từ năm 1970 cho đến nay, Giáo xứ
Hải Đăng đã trải qua 42 năm với
biết bao thăng trầm. Một khoảng thời gian
không quá gần cũng không quá xa, nhưng đủ
để nhìn rõ trọn vẹn từng biến cố
đã xảy ra cho cộng đoàn. Hôm nay đây, đọc
lại từng biến cố lịch sử ấy,
để mọi thành viên nhận ra bàn tay yêu thương
và quan phòng kỳ diệu mà Thiên Chúa muốn thực
hiện cho cộng đoàn Giáo xứ Hải Đăng.
Cứ từng bước, từng bước một,
Thiên Chúa đã thực hiện cho Giáo xứ điều mà
Ngài đã từng hứa với thánh Phaolô: “Ơn Ta đủ cho con” (2 Cr 12, 9a). Và quả
thật, nhìn lại những ngày đã qua, và những
điều ở trước mắt nơi đây, ai
cũng nhận ra ơn Chúa không chỉ là Đủ mà còn Dư
Đầy vượt quá những gì mà con người
có thể ước mơ hay nghĩ tới.
Ngày lễ khánh thành và
cung hiền Nhà thờ mới
là ngày trọng đại nhất và đáng ghi
nhớ đối với Giáo xứ Hải Đăng. Sau bao ngày tháng miệt mài, lo toan, hôm nay ngôi Nhà
thờ đã được hoàn thành.
Nhà thờ là
nơi mà mỗi ngày mọi thành phần dân Chúa
được tập họp đến để dâng lên
Thiên Chúa lời ca ngợi, và phó thác cho Ngài những trăn
trở của cuộc sống.
Bàn thờ là
nơi hiện tại hoá Hy Tế Thánh Giá dưới các
dấu chỉ bí tích. Đồng thời, cũng là nơi
dân Chúa được mời gọi đến tham dự
bàn tiệc của Chúa. Mặt khác, bàn thờ còn
tượng trưng cho chính Chúa Kitô. Vì thế, theo
truyền thống từ lâu đời trong Giáo Hội, bàn
thờ được làm cố định bằng
một tấm đá tự nhiên duy nhất, hay ít nữa, là
bằng những vật liệu xứng hợp.
Cũng theo
truyền thống từ lâu đời trong Giáo Hội, bàn
thờ thường được dựng trên phần
mộ các Thánh Tử Đạo, hay ít là có đặt hài
cốt của các ngài. Theo đó, bàn thờ mới
được đặt hài cốt các Thánh Tử Đao
tại Việt Nam. Đức cha Tôma đã đặt hài
cốt 3 thánh Tử Đạo Việt Nam trong nghi thức
Thánh Hiến bàn thờ.
a. Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh - Linh mục
Ngài sinh năm
1793 tại xã Trinh Hà, huyện Hoàng Hóa, phủ Hà Trung,
tỉnh Thanh Hóa, là con thứ ba trong một gia đình Công
Giáo. Năm 12 tuổi, cầu vào ở với cha Duệ xứ
Bạch Bát. Sau ba năm, cậu được cha gởi
đi học tại Chủng Viện Vĩnh Trị (Nam
Định).
Cuối
năm 1841, thầy Tịnh bị bắt lần thứ
nhất và bị án lưu đày chung thân ở Phú Yên (Bình
Định). Sau khi vua Thiệu Trị mất (04.11.1847), vua
Tự Đức lên ngôi, thầy Tịnh đươc ân
xá trở về. Sau đó, vâng lời Đức Cha,
thầy Tịnh lãnh chức Linh mục khi đã 56 tuổi.
Khoảng một năm sau, Cha Tịnh được
giữ chức Giám Đốc, kiêm Giáo sư Chủng
Viện Vĩnh Trị.
Năm 1857, cha
Tịnh bị bắt lần thứ hai.
Ngày 06.4.1857,
cha Lê Bảo Tịnh chịu trảm quyết tại pháp
trường Bảy Mẫu (Nam Định).
Đức
Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong ngài lên bậc Chân Phước
ngày 02.5.1909.
b. Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm – Giáo dân
Ngài sinh năm
1813 tại họ Tắt, thuộc làng Long Đại,
xứ Gò Công, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc huyện Thủ
Đức), là con trai trưởng trong một gia đình có
năm anh em trai và một em gái út.
Năm 15
tuổi, cậu Gẫm xin phép cha mẹ gia nhập
chủng viện Lái Thiêu, nhưng chỉ một tháng sau, gia
đình đã đến xin cậu về giúp cha mẹ, vì
cậu còn một đàn em nhỏ dại.
Ngày 08.6.1846,
ông Matthêu Gẫm bị bắt khi trên đường
đón Đức Cha Đaminh Lefèbvre Nghĩa, cha Duclos
Lộ và ba chủng sinh từ Sigapour về Saigon.
Ngày 11.5.1847,
ông Lê Văn Gẫm bị
xử trảm tại pháp trường “Da Còm”, nay là xứ
Chợ Đũi – Saigon.
Đức
Giáo Hoàng Lêô XIII đã tôn phong ngài lên bậc Chân Phước
27/5/1900.
c. Thánh Anê Lê Thị Thành – Giáo dân
Ngài sinh
khoảng năm 1781 tại làng Bái Điền, huyện Yên
Định, tỉnh Thanh Hóa. Ngay từ nhỏ, cô Thành
đã theo mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc, nay
thuộc Giáo phận Phát Diệm. Năm 17 tuổi, cô Thành
kết hôn với anh Nguyễn Văn Nhất người
cùng xã. Hai ông bà sinh được hai người con trai và
bốn người con gái.
Ngày 14.4.1841 bà
Thành bị bắt đang khi bà che dấu cho các Linh mục
sau thánh lễ Phục Sinh.
Bà bị
chết rũ tù và ngày 12.7.1841, sau ba tháng bị giam cầm.
Đức
Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong ngài lên bậc Chân Phước
ngày 02.5.1909.
Cả ba vị đều
đã được Đức Thánh Cha Gioan - Phaolô II tuyên
phong lên bậc hiển thánh vào ngày 19/6/1988 cùng với 114
vị Thánh Tử đạo khác tại Việt Nam.
3.
Hướng về
tương lai
Cha Sơn cho tôi biết, tổng diện tích giáo xứ
đang sở hữu là 53.000m2. Tọa lạc tại phường 12 Thành phố Vũng tàu nên giáo
xứ là nơi thật lý tưởng cho những sinh hoạt hội đoàn giữa những vườn cây xanh ngát tỏa
bóng mát.
Nổi bật giữa
khuôn viên rộng rãi là Ngôi nhà
thờ mới thật nguy nga. Hai tầng với
tổng diện tích xây dựng
đến 3.500m2. Tầng trệt có nhà
nguyện Chầu Thánh Thể, 11 phòng giáo lý,
phòng truyền thống, phòng hài cốt, văn phòng giáo xứ. Tầng lầu là Nhà
thờ, mái đúc bêtông, có sức chứa
cả ngàn người, cung thánh rộng thoáng. Tháp chuông cao 40m
với 3 quả chuông hòa âm
Sol, Si, Re ngân vang khắp bình nguyên rộng
lớn. Nhà xứ
mới cũng thật đẹp và nhiều phòng.
Bệnh viện đa khoa, trường
đại học, trung học và nhiều công trình khác
đang được
xây dựng trong địa bàn giáo xứ
Hải Đăng. Nhiều di dân từ Phước
Tỉnh, Vùng Tàu sẽ đến
lập nghiệp nơi đây. Nhìn xa trông rộng,
Cha Sơn ưu tư cho những
đường hướng
mục vụ trong tương lai.
Song song với
việc xây dựng cơ sở vật chất, Cha Xứ đã nâng cao
đời sống tinh thần, củng cố các hội đoàn:
Gia trưởng, các Bà mẹ
Công Giáo, Lêgiô, huynh đoàn
Đaminh, Phan sinh Tại thế và quan
tâm nhiều đến giới trẻ và các
em thiếu nhi. Sau 8 năm nhận
xứ, ngài đã làm thay
đổi bộ mặt giáo xứ. Nay Hải Đăng như ngọn đèn tin yêu tỏa sáng.
Ở bất
cứ nơi nào trên thế
giới, nhà thờ luôn là biểu trưng
của cuộc sống. Nhà thờ là nhà của con người, chính nơi đây con người nhận lấy sự sống mới và cũng chính
nơi đây, con người được
yên nghỉ sau cuộc sống tạm bợ nơi trần gian. Nhà thờ còn là
nơi chứng kiến biết bao buồn vui của kiếp
người. Nhà
thờ là nơi gặp gỡ giữa trời cao đất thấp là nơi gặp
gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Nhưng quan
trọng hơn cả, nhà thờ
là nơi gặp gỡ giữa người với người.
Gặp gỡ trong lời cầu nguyện, gặp gỡ nhau trong chia
sẻ, gặp gỡ nhau trong
lời chào bình an, trong cái bắt tay của tha thứ, của hòa giải.
Gặp gỡ nhau để nối kết vòng tay
với người khác, gặp gỡ nhau để
cùng trở lại cuộc sống với lòng hăng say và nhiệt thành hơn.
Hiệp
ý tạ ơn với cộng đoàn Giáo Xứ Hải Đăng và nguyện xin Thiên Chúa giàu
tình thương ban phúc lành cho
mọi người gần xa đã
góp công góp của, góp cảm tình
và mọi thứ giúp đỡ khác vào việc xây dựng những công trình phục vụ lợi ích chung, nhất
là những công trình nhằm
phát triển chiều kích thiêng liêng.
Lm Giuse Nguyễn
Hữu An
|