SẮC MÀU
GIAO ƯỚC
Trầm Thiên Thu
Có những lúc trời mưa to, gió lớn khiến
chúng ta sợ hãi, càng sợ hãi hơn nếu chúng ta ở
gần biển khi trời chuyển mưa, nhìn cảnh
tượng thật hãi hùng và thấy mình quá nhỏ bé!
Nhưng mỗi khi nhìn thấy cầu vồng 7
sắc, chúng ta cảm thấy an tâm và vui mừng. Vui
mừng không chỉ biết chắc rằng giông tố
đã qua mà còn vui mắt với màu sắc đẹp
đẽ và lộng lẫy tạo thành vòng bán nguyệt
kỳ diệu. Đặc biệt là khi đó chúng ta
hạnh phúc nhớ lại giao ước mà Thiên Chúa đã
thiết lập từ ngàn xưa, sau “thiên tai” Đại
hồng thủy.
THIẾT LẬP GIAO ƯỚC
Thiên Chúa nói với ông Nô-ê và các con ông: “Đây Ta
lập giao ước của Ta với các ngươi,
với dòng dõi các ngươi sau này, và tất cả mọi
sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã
thú ở với các ngươi, nghĩa là mọi vật
ở trong tàu đi ra, kể cả dã thú” (St 9:8-10). Ngài
không chỉ lập giao ước với nhân loại chúng
ta mà còn lập giao ước với cả những thú
vật ở với chúng ta. Giao ước đó là: “Mọi
xác phàm sẽ không còn bị hồng thủy huỷ
diệt, và cũng sẽ không còn hồng thủy tàn phá
mặt đất nữa” (St 9:11). Tuyệt vời quá!
Có lẽ Chúa sợ chúng ta nghi ngờ nên Ngài đã
tạo “ấn tín” về giao ước ấy đặt
giữa Ngài với nhân loại, và với mọi sinh
vật ở với chúng ta, cho đến muôn thế
hệ mai sau, bằng cách chỉ rõ dấu hiệu: “Ta gác
cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao
ước giữa Ta với cõi đất” (St 9:13). “Cây
cung” mà Chúa đã “gác lên mây” đó chính là chiếc cầu
vồng 7 sắc, là “vòng cung hồng ân”. Bất kỳ
khi nào “cây cung” đó xuất hiện trong mây, Thiên Chúa sẽ
“nhớ lại giao ước xưa đã được
thiết lập với chúng ta và mọi sinh vật” (St 9:15),
nghĩa là nước sẽ không còn trở thành hồng
thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa. Giao
ước ấy lung linh sắc màu phản chiếu ánh
hồng ân của Thiên Chúa.
Chúng ta chỉ là phế phẩm, là rơm rác, là cát
bụi, thế mà Thiên Chúa vẫn nâng niu và hết lòng yêu
thương. Là phàm nhân yếu đuối, lơ là chỉ
trong tích tắc là chúng ta sa ngã và bất trung với Ngài ngay,
thế nên chúng ta luôn phải cảnh giác cao độ và
liên lỉ cầu xin: “Lạy Chúa, đường
nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của
Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo
đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy
dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con” (Tv
25:4-5a). Không chỉ là khôn ngoan mà còn là bổn phận
của chúng ta khi phải “sớm hôm cậy trông Ngài,
bởi vì Ngài nhân ái” (Tv 25:5b).
Ngài luôn đại lượng và nhân từ nên luôn
“nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu mà Ngài đã
từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời”
(Tv 25:6). Ai cũng đã từng sai lầm, nhất là khi
người ta còn trẻ. Càng thêm tuổi, người ta
càng “giật mình” khi quay đầu nhìn lại quá khứ: “Tuổi
xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ
đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ
đến con cùng” (Tv 25:7).
Nhưng chúng ta rất thường ảo
tưởng, thực ra “chúng ta không đến với ân
sủng, mà ân sủng đến với chúng ta” (M. Scott
Peck). Đó là điều khó hiểu đối với chúng
ta – những tội nhân khốn kiếp. Tuy nhiên, Chúa không
hẹp hòi như chúng ta, vì “Ngài là Đấng nhân từ
chính trực”, sẵn sàng “chỉ lối cho tội nhân,
dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, và
dạy cho biết đường lối của Ngài” (Tv
25:8-9).
Chúa “cho” nhiều mà không “đòi” gì ở chúng ta, Ngài
muốn chúng ta thực hành điều này hay điều
nọ là vì ích lợi cho chúng ta, chứ không phải là Ngài
“đòi” chúng ta trả ơn, vì ngay cả “việc chúng ta ca
tụng Chúa cũng không thêm gì cho Ngài mà chỉ đem
lại ơn cứu độ cho chính chúng ta” (Kinh tiền
tụng). Chúng ta cho ai cái gì, thậm chí chỉ là “phần
thừa”, thế mà chúng ta đã vội lên mặt và kể
công, còn nhận hoặc mượn ai cái gì thì chúng ta
chỉ muốn “xù” thôi. Thiết nghĩ chúng ta nên nghe
Elizabeth Bibesco nói: “Phúc thay ai CHO mà không nhớ,
NHẬN mà không quên”.
HỆ LỤY GIAO ƯỚC
Thiên Chúa đã yêu thương, tha thứ và lập giao
ước với chúng ta, thế nhưng chúng ta vẫn
cứng lòng và ngang ngược, dám thách thức với
cả Thiên Chúa. Ngài vẫn kiên tâm chịu đựng, và
cuối cùng đã sai chính Con Trai yêu dấu của Ngài là
Đức Giêsu Kitô đến làm người và chịu
chết thay chúng ta. Thánh Phêrô nói: “Đức Kitô đã
chịu chết một lần vì tội lỗi,
Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất
lương, hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng
Thiên Chúa. Thân xác Ngài đã bị giết chết, nhưng
nhờ Thần Khí, Ngài đã được phục sinh”
(1 Pr 3:18). Đức Kitô còn “đến rao giảng cho các
vong linh bị giam cầm, tức là những người
xưa đã không vâng phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa
kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa là thời ông Nô-ê đóng
tàu. Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám
người, được cứu thoát nhờ
nước” (1 Pr 3:19-20). Tám người đó đại
diện nhân loại, nếu nhân loại biết sám
hối và tín thác vào lòng thương xót của
Đức Kitô thì tất cả đều
được cứu độ.
Ngài xưa, nước của trận Đại
hồng thủy đã “rửa sạch” địa cầu,
và “nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát
chúng ta” (1 Pr 3:21a). Thánh Phêrô giải thích: “Lãnh nhận phép
rửa không phải là được tẩy sạch
vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa
sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ
sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 3:21b).
Nước thật kỳ lạ, không thứ gì mềm
bằng nước mà cũng không thứ gì mạnh
bằng nước. Nước cũng rất cần trong
sinh hoạt hằng ngày, người ta có thể nhịn
đói vài ngày mà không chết, nhưng thiếu nước
thì… chết sớm!
Nước còn là biểu hiện của Chúa Thánh
Thần. Chúa Thánh Thần là Thánh Linh, là Thần Khí. Nói chung,
Chúa Thánh Thần hiện thân trong những thứ mềm
nhất: Nước, lửa, gió. Nhưng chính những
thứ có vẻ mềm yếu nhất lại là những
thứ mạnh mẽ nhất, không gì có thể
cưỡng lại!
Chúa Thánh Thần tác động thì mọi thứ
đều biến đổi mau chóng. Chúa Giêsu
được Thần Khí thúc đẩy “vào hoang
địa, ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ,
sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ
Ngài” (Mc 1:12-13). Đức Giêsu đã tĩnh tâm, trai tịnh
và cầu nguyện nhiều trước khi “đến
miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (Mc 1:14).
Chúa Giêsu còn vậy huống chi chúng ta, nghĩa là cuộc
đời chúng ta cũng phải theo quy trình của Ngài – vì
Ngài là Chúa, là Sư phụ, là Đại huynh của mỗi
chúng ta. Muốn làm gì, dù điều nhỏ mọn, chúng ta
cũng phải thành tâm cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng và
hướng dẫn rồi mới hành động: Thứ
nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành
động.
Khi hành động, chắc chắn chúng ta sẽ
gặp nhiều trở ngại, bị chống
đối, bị ghen ghét, thậm chí là bị hại. Chúng
ta là tôi tớ nên không thể hơn chủ (x. Ga 13:16 &
20). Chúa Giêsu còn bị chê lên chê xuống thì chúng ta chẳng
là “cái đinh” nào. Ngài biết vậy nên luôn thông cảm và
luôn đồng hành với chúng ta. Ngài cảnh báo: “Thời
kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần. Anh chị em hãy sám hối và tin vào Tin
Mừng” (Mc 1:15). Đó là điều kiện “ắt có
và đủ” để được cứu độ,
đồng thời cũng là hệ lụy của giao
ước, tức là bổn phận và trách nhiệm mà chúng
ta phải hoàn tất trước khi được
cứu độ.
Lạy Chúa, xin cảm tạ Ngài vì
giao ước Ngài đã thiết lập với chúng con. Xin
Thần Khí Thiên Chúa không ngừng biến đổi chúng con
để chúng con kiên tâm chịu đựng với
niềm tín thác triệt để trong mọi hoàn cảnh. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Thiên
Sai và Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Trầm Thiên Thu
|