Google Search
Local Search
|
|
Bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Thái Bình
|
Bổ nhiệm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Xin mời nghe proshow "Lời Gọi Fatima" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
Xin chia sẻ cùng quí cha, thày và anh chị proshow "Danh Thánh Đức Maria" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Mùa Chay, Nguồn Gôc Và Ý Nghĩa
|
|
Thứ Ba, Ngày 21 tháng 2-2012
|
MÙA CHAY, NGUỒN GÔC VÀ Ý NGHĨA
Lm. Jean
Luc Muller
Là thời gian hướng
về ngày lễ Phục Sinh bắt đầu với
thứ Tư Lễ Tro, một thời gian thiêng liêng phong
phú cho các cộng đoàn Kitô giáo, Mùa Chay với hình thức
như hiện nay là kết quả của quá trình tiến
triển lâu dài về lịch sử cũng như phụng
vụ, xét về độ dài thời gian cũng như
sự nghiêm ngặt của các quy định.
Nguồn gốc
Nói thật
ra, Mùa Chay là một thiết chế của Giáo Hội không
bắt nguồn từ thời Giáo Hội sơ khai.
Đối với các Kitô hữu thời các tông đồ,
mỗi ngày Chúa Nhật là một cử hành biến cố
phục sinh, và mãi cho đến thế kỷ thứ II
mới thấy xuất hiện một ngày lễ
đặc biệt dành để tưởng niệm cái
chết và phục sinh của Đức Kitô để
rồi sau đó biến thành Tam Nhật phục sinh (Triduum
pascal): thứ Năm Tuần Thánh, thứ Sáu Tuần Thánh và
Vọng Phục Sinh.
Biến cố này
được chuẩn bị bằng một hay nhiều
ngày ăn chay tuỳ theo miền,
thường là từ chiều thứ Năm Tuần Thánh
cho đến sáng ngày lễ Phục Sinh, hoặc ít ra là
trong vòng 40 giờ từ lúc Chúa chịu chết cho
đến thời điểm phục sinh. Đến
giữa thế kỷ thứ III, ở Alexandrie việc
giữ chay kéo dài suốt Tuần Thánh, và đến
cuối thế kỷ III thì tại Ai Cập cũng đã
xuất hiện việc giữ chay kéo dài đến 40 ngày
mà mục đích trước hết dường như là
sống lại thời gian chay tịnh của Chúa Giêsu trong
hoang mạc cũng như chuẩn bị cho lễ Phục
Sinh.
40 ngày
Chẳng bao lâu sau, Mùa Chay
40 ngày của người Ai Cập đã định hình
như là thời gian chuẩn bị cho cái chết và
phục sinh của Đức Kitô và lan rộng ra khắp
Giáo Hội. Vào tiền bán thế kỷ thứ IV, ở
Roma đã hình thành một thời gian chay tịnh trong 3
tuần trước khi cử hành biến cố phục
sinh và vào khoảng giữa những năm 354 đến 384
họ cũng đã thêm vào 3 tuần nữa. Như vậy
chính xác có 40 ngày (quadragesima) giữa Chúa
Nhật mở đầu Mùa Chay cho đến khi bắt
đầu Tam Nhật Thánh (Triduum).
Nhưng vì không ăn chay vào các ngày Chúa Nhật nên thực
tế chỉ có 34 ngày ăn chay trong thời gian này. Cộng thêm ngày thứ Năm và thứ Sáu Tuần
Thánh thì cũng chỉ có 36 ngày. Và cũng vì muốn
chuẩn bị cho biến cố phục sinh bằng cách
rập khuôn chính xác 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong
hoang mạc nên vào thế kỷ thứ VII người ta
thêm vào 4 ngày còn thiếu, và từ khi ấy người ta
bắt đầu Mùa Chay với thứ Tư trước
Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay mà sau này trở thành
thứ Tư Lễ Tro. Vào ngày này, các tín hữu ở Roma
tụ họp nhau tại nhà thờ Thánh Anastasie dưới
chân đồi Palatin là nơi Đức Giáo Hoàng công bố
mở đầu Mùa Chay; rồi mọi người đi
thành đoàn rước đến nhà thờ Thánh Sabine trên
đồi Aventin để cử hành thánh lễ.
Thứ Tư Lễ Tro
Việc xức tro có
nguồn gốc từ thực hành thống hối công khai,
một nghi thức bắt buộc dành cho các tín hữu
phạm lỗi nặng hoặc làm gương xấu
trước khi họ được chính thức tái hoà
nhập cộng đoàn vào ngày thứ Năm Tuần Thánh,
họ được xá tội và được phép
rước lễ trở lại vì trước đó
họ bị cấm.
Một trong
những thực hành thống hối công khai này là xức
tro trên đầu. Cử chỉ này thịnh hành ở
Roma từ thế kỷ thứ IV và dần dần lan ra các xứ Kitô giáo, rồi nhiều tín
hữu tự nguyện xức tro trên đầu để
biểu lộ ý muốn thống hối. Chính các
Đức Giáo Hoàng cũng đã chấp nhận nghi
thức này và vào thế kỷ XI thì các ngài đã kết
hợp việc thống hối này với việc bắt
đầu Mùa Chay, do đó mà có tên gọi thứ Tư
Lễ Tro và thực hành xức tro.
Là bụi đất, hình
ảnh của tội lỗi và sự mong manh của con
người, là những gì còn lại của thân xác sau khi
ngọn lửa sự sống vụt tắt đi (St 3, 19;
18, 27), tro rắc trên đầu mà ngày nay người ta
xức trên trán biểu lộ sự thống hối và tang
chế (Is 58, 5; 61, 3; Gr 6, 26). Chính vì thống hối
dưới bụi tro và áo mặc áo vải thô mà dân thành
Ninivê nhận được sự tha thứ của Thiên
Chúa (Gn 3)
Linh đạo Mùa Chay
Là thời gian hoán cải
dành cho hối nhân, trong những thế kỷ đầu
tiên, Mùa Chay cũng là thời gian chuẩn bị cho các
dự tòng chịu phép rửa để được gia
nhập cộng đoàn Kitô giáo vào đêm Phục Sinh, sau khi
giữ chay và tiết chế trong suốt thời gian này
cũng như miệt mài cầu nguyện.
Như thế, khi khuyên
nhủ các tội nhân công khai hối cải, Giáo Hội
cũng khích lệ toàn thể cộng đoàn thống
hối, và khi nhắn gởi với các dự tòng, Giáo
Hội cũng chuẩn bị cho mọi tín hữu sống
lại ân sủng phép rửa của chính mình.
Khi chuẩn bị cho
mọi người gặp gỡ Thiên Chúa, đối
với các tín hữu, Mùa Chay đã trở thành một hành
trình tiến về Thiên Chúa, một con đường vòng
băng qua hoang mạc, một cuộc chiến đấu
với những cám dỗ trong đời sống. Giáo Hội đề nghị chúng ta sống
trọn vẹn cuộc sống Kitô hữu của chúng ta
một cách nồng nhiệt hơn trong suốt mấy
tuần hướng về ngày lễ Phục Sinh.
Như đoàn dân của
Môisen lang thang nhiều năm dài trước khi vào
Đất Hứa, chúng ta cũng khám phá ra rằng hành trình
tiến về Thiên Chúa, con đường tiến về
Nước Trời của chúng ta không phải là không
gặp khó khăn, chướng ngại, thụt lùi, đôi
khi có phản kháng nữa; thế nhưng Thiên Chúa vẫn
luôn hiện diện để mang lại cho ta hy vọng và
niềm tin. Khi kết hiệp với Chúa Giêsu
Kitô vẫn luôn trung thành với Chúa Cha trong thử thách
cuối cùng, chúng ta sống kinh nghiệm cuộc
vượt qua tiến về Chúa Cha qua sự sống và cái
chết, chúng ta dần tiến về mầu nhiệm
của Đức Kitô để hiệp thông vào đấy
một cách sâu xa hết sức có thể.
Làm thế nào
để diễn dịch cách cụ thể cuộc hành
huơng tiến về với Thiên Chúa mà mỗi Kitô hữu
được mời gọi trong suốt thời gian Mùa
Chay này? Đã có câu trả lời được
lập đi lập lại qua các bản văn phụng
vụ ngày Chúa Nhật (và những ngày khác) trong thời gian
chuẩn bị cho biến cố phục sinh: các bài
đọc Tin Mừng cũng như Kinh Tiền Tụng
đã dành ưu tiên cho bộ ba này: cầu nguyện, ăn
chay và chia sẻ.
1. Cầu
nguyện
Là khoảng không ngút mắt
nơi không có sự sống, hoang mạc mà dân của Giao
Ước cũ và chính Đức Kitô đã đi qua
đưa chúng ta đến yếu tính của đời
sống, dẫn chúng ta gặp gỡ với Hữu Thể
độc nhất, cội nguồn cho hiện hữu
của chúng ta: Thiên Chúa. Là nơi chốn
gợi lên sự vô cùng của Thiên Chúa, chính trong hoang
mạc mà Charles de Foucauld đã tận hiến hoàn toàn cho
Ngài qua lời cầu nguyện. Như
thế, hoang mạc và Mùa Chay là nơi chốn và thời
gian để gặp gỡ Chúa trong lời cầu
nguyện.
Qua lời cầu
nguyện, đời sống chúng ta hướng về
Thiên Chúa, chúng ta để cho Chúa Thánh Thần uốn
nắn mình theo hình ảnh Đấng
Tạo Hoá để trở nên sẵn sàng cho Đức
Kitô và cho anh em. Cầu nguyện là
“lương thực hằng ngày” nuôi sống chúng ta
bằng tình yêu của Thiên Chúa, không có nó tâm hồn chúng ta có
nguy cơ xa rời ý muốn của Chúa Cha.
Theo gương các dự
tòng vào những thế kỷ đầu tiên đã toàn tâm
toàn ý cầu nguyện cách quảng đại và thực
tâm, theo gương Đức Kitô lui vào trong cô tịch
của hoang mạc Giuđa, chúng ta hãy biến Mùa Chay thành
một thời gian gặp gỡ Chúa, chiêm niệm và tạ
ơn, ngợi ca Danh Thánh Chúa và biến đổi tâm
hồn.
2. Ăn chay
Là nơi gặp gỡ
Thiên Chúa, đối với dân Israel cũng như
đối với Đức Kitô, hoang mạc đồng
thời cũng là thời gian thử thách, là trận chiến
chống lại thế lực sự dữ để không
nhường bước trước thú vui, điều
choáng ngợp và quyền lực, ba thần tượng mà
con người thường hy sinh tất cả để
đạt cho được. Những cám dỗ này không
ngừng quấy nhiễu chúng ta và là nguồn gốc
nhiều sự dữ, ngay từ khi xuất hiện Mùa
Chay, việc từ bỏ những cơn cám dỗ này
được diễn dịch bằng việc ăn chay,
một thực hành rất đòi hỏi nhưng lại
đạt được nhiều kết quả thiêng
liêng. Khi giảm thiểu những nhu cầu sống
để chỉ giữ lại những gì thiết
yếu, việc ăn chay giúp chúng ta trở nên những
người nghèo khó trong tâm hồn (xem Các Mối Phúc),
nghĩa là thành những con người cần đến
Thiên Chúa, nhường cho Ngài một chỗ trong đời
sống mình, người nghèo trong Tin Mừng là những
người đặt hết niềm hy vọng vào Chúa,
háo hức gặp gỡ với Đức Kitô. Như
vậy sự khổ hạnh và từ bỏ mọi sự
rất cần thiết để Thánh Thần Thiên Chúa xâm
chiếm lấy con người mình.
Nếu chay tịnh
trước hết có nghĩa là từ bỏ của ăn thì trong ý nghĩa tận căn hơn
nữa ăn chay cũng có nghĩa là từ bỏ tính ích
kỷ, tính cứng đầu và lòng tham lam của chúng ta:
“Đây là những điều bạn phải thực hành
khi muốn ăn chay. Trước hết, hãy
xa lánh mọi lời nói và ước muốn xấu xa,
thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi thứ hư không
đời này. Nếu giữ được
điều đó, việc ăn chay
của bạn sẽ nên hoàn hảo. Sau khi hoàn tất
những gì tôi đã viết trên đây, vào ngày ăn chay,
bạn không ăn gì ngoại trừ bánh mì và nước lã
và rồi hãy tính toán giá lương thực mà bạn
thường ăn trong ngày ấy, bạn dành tiền
ấy để cho quả phụ, cô nhi hoặc
người nghèo … Nếu bạn ăn chay theo như
những điều tôi khuyên nhủ trên đây, hy sinh
của bạn sẽ được Thiên Chúa chấp
nhận” (Le Pasteur d’Hermas).
3. Chia sẻ
Ngay từ thế kỷ
thứ II, việc ăn chay đã có
khuynh hướng chia sẻ như là một phương
tiện giúp đỡ những ai đang túng thiếu
để chúng ta có thể tiến đến gần Thiên
Chúa hơn. Thánh Cyprianô thành Carthage vào thế kỷ thứ
III cũng đã để lại những dòng chữ
rất thuyết phục về chủ đề này:
“Những người giàu có và dư dật … bạn sẽ
trở nên vàng ròng khi tinh luyện mình qua các công việc vì
đức công bình và làm bố thí … Hãy xem trong Tin Mừng,
một bà goá nghèo đã đi vào trong lời dạy của
Thiên Chúa khi bà bố thí giữa lúc thất vọng và túng
bấn. Bà ném vào trong thùng tiền hai
đồng xu cuối cùng. Chúa đã lưu ý và
nhấn mạnh về tấm lòng quảng đại
của bà và nói: “Bà goá này đã dâng cho Thiên Chúa nhiều
hơn mọi người khác” … Đức Giêsu Kitô
muốn chúng ta hiểu rằng của bố thí của
chúng ta sẽ đến với chính Thiên Chúa và rằng
những ai bố thí thì đẹp lòng Chúa”.
Chia sẻ
cũng là tình yêu tha nhân, nhìn nhận người khác như
đồng loại của mình, nhận ra Đức Kitô
trong những người anh em hèn mọn nhất.
Đây là biểu hiện tình yêu Thiên Chúa của chúng ta và
không thể được diễn dịch đơn
thuần chỉ bằng một phong trào cứu trợ hay
phong trào đoàn kết nào đó. Qua sự thiếu thốn
và chia sẻ, chúng ta đáp ứng được giới
răn kép của tình yêu: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là
Thiên Chúa ngươi và yêu tha nhân như chính mình”.
Ghi chú:
Khi nói về việc ăn
chay, mãi cho đến thế kỷ thứ IX, tất nhiên
là việc giữ chay nghiêm nhặt hơn ngày nay nhưng
không phải là các tín hữu cả ngày không ăn uống
gì. Thật ra, người ta phân biệt:
-
Ăn chay đơn giản, kiêng mọi thứ thịt,
cả trứng, phômai, bơ và sữa. Việc ăn chay này
kéo dài suốt Mùa Chay, trừ các ngày Chúa Nhật.
-
Ăn chay nhặt một vài ngày nào đó trong thời gian
này, nhất là thứ Sáu và thứ Bảy Tuần Thánh. Trong
những ngày này người ta chỉ dùng một bữa ăn nhẹ duy nhất trong ngày.
Hiện nay, Giáo Hội
chỉ buộc kiêng thịt vào các ngày thứ sáu của Mùa
Chay, ăn chay cùng với kiêng thịt vào các ngày thứ
Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh. “Luật
kiêng thịt buộc những người đã 14 tuổi
trọn. Luật ăn chay buộc
hết mọi người đã đến tuổi
trưởng thành cho tới lúc bắt đầu 60
tuổi” (Giáo luật điều 1252).
Nhưng
trọn Mùa Chay vẫn là thời gian thống hối, các
ngày thứ Sáu khác trong năm cũng vậy. Trong
những ngày này, “Các tín hữu chú trọng đặc
biệt đến sự cầu nguyện, thi hành việc
đạo đức và việc bác ái, từ bỏ bản
thân, bằng cách chu toàn các bổn phận riêng và nhất là
bằng cách giữ chay và kiêng thịt” (Giáo luật
điều 1249). Việc giữ chay và kiêng thịt cũng
có thể được thay thế bằng các hình thức
thống hối khác do Hội Đồng Giám Mục quy
định (Giáo luật điều 1253).
Phụng vụ
Sự
thống hối của Mùa Chay được biểu
lộ ra bên ngoài qua màu lễ phục phụng vụ (màu
tím) và không đọc kinh Allêluia và kinh Vinh Danh trong thánh
lễ và các giờ kinh. Ngày xưa,
việc đánh đàn trong nhà thờ hoàn toàn bị bãi
bỏ trong thời gian này, ngày nay người ta hết
sức giảm thiểu, chỉ đệm đàn
để hát.
Một nốt nhạc vui
đột nhiên cắt ngang những ngày thống hối
này: đó là ngày Chúa Nhật Vui (Laetare), hay Chúa Nhật
thứ tư Mùa Chay với lễ phục màu hồng thay
cho màu tím. Nguyên thuỷ của ngày này được tìm
thấy trong nghi thức trao ban Tín biểu đức tin
(kinh Tin Kính) cho các dự tòng vào ngày thứ Tư sau Chúa
Nhật thứ tư Mùa Chay. Vì thế,
niềm vui của Giáo Hội đã được biểu
lộ trong phụng vụ ngay từ ngày Chúa Nhật vì mình
sắp được thâu nhận những tín hữu
mới. Lý do thật sự của ngày Chúa Nhật Vui
(Laetare) – mà tên gọi xuất phát từ ca nhập lễ
trong ngày này (Laetare Jerusalem – Hãy vui lên hởi Giêrusalem) – sau
đó đã bị lãng quên để rồi mang lấy
một ý nghĩa khác là “để an ủi cho các tín hữu
khỏi bị ngã lòng nản chí vì nỗ lực kéo dài trong
Mùa Chay và giúp họ tiếp tục chịu đựng
những hạn chế với tâm hồn thanh thản và
nhẹ nhàng” (Giáo Hoàng Innôcentê III, 1216).
Bài đọc các ngày Chúa Nhật Mùa Chay
Hướng
về ngày lễ Phục Sinh, phụng vụ Lời Chúa
trong 5 Chúa Nhật Mùa Chay (Chúa Nhật thứ sáu là Lễ Lá
và Thương Khó) được diễn dịch bằng
cách gợi lại những giai đoạn lớn trong hành
trình của nhân loại tiến về ngày Phục Sinh
của Đức Kitô:
-
Những giao ước nguyên thuỷ (Năm A: St 2,
7-3, 7; Năm B: St 9, 8-15; Năm C: 26, 4-10)
-
Abraham (Năm A: St 12, 1-4; Năm B: St 22, 1-18; Năm C:
St 15, 5-18)
-
Môisen (Năm A: Xh 17, 3-7; Năm B: Xh 20, 1-17; Năm C: Xh
3, 1-15)
-
Đất Hứa (Năm A: 1 Sm 16, 1-3; Năm B: 2 Sb 36,
14-23; Năm C: Gs 5, 10-12)
-
Các ngôn sứ (Năm A: Ed 37, 12-14; Năm B: Gr 31, 31-34;
Năm C: Is 43, 16-21)
Chủ
đề của các bài Tin Mừng:
-
Cơn cám dỗ và sự biến hình của
Đức Kitô trong hai Chúa Nhật đầu tiên theo một trong ba Tin Mừng Nhất Lãm.
-
Giáo lý về bí tích rửa tội trong ba Chúa Nhật
còn lại của năm A (Ga 4, 5-42; Ga 9, 1-41; Ga 11, 1-45)
-
Thập giá, dấu hiệu tôn vinh của Đức
Kitô, trong ba Chúa Nhật còn lại của Năm B (Ga 2, 13-25;
Ga 3, 14-21; Ga 12, 20-33)
-
Lòng thương xót của Chúa kêu mời hối
cải trong ba Chúa Nhật còn lại của Năm C (Lc 13,
1-9; Lc 15, 1-32, Ga 8, 1-11)
Cuối
cùng là các bài thánh thư được
chọn lựa để làm rõ nghĩa cho bài Tin Mừng hay
bài trích Cựu Ước.
Lm. Jean
Luc Muller
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính.Gp Quy
Nhơn
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài cùng ngày
Tin/Bài khác
|
|