Google Search
Local Search
|
|
Bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Thái Bình
|
Bổ nhiệm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Xin mời nghe proshow "Lời Gọi Fatima" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
Xin chia sẻ cùng quí cha, thày và anh chị proshow "Danh Thánh Đức Maria" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Lễ Tro Các Hành Vi Tôn Giáo
|
|
Thứ Ba, Ngày 21 tháng 2-2012
|
TamAnh
Normal
TamAnh
1
1
2012-02-21T15:44:00Z
2012-02-21T15:45:00Z
1
1873
10681
123
89
25
12529
10.2625
Clean
Clean
MicrosoftInternetExplorer4
<!--
/* Font Definitions */
@font-face
{font-family:Wingdings;
panose-1:5 0 0 0 0 0 0 0 0 0;
mso-font-charset:2;
mso-generic-font-family:auto;
mso-font-pitch:variable;
mso-font-signature:0 268435456 0 0 -2147483648 0;}
@font-face
{font-family:SimSun;
panose-1:2 1 6 0 3 1 1 1 1 1;
mso-font-alt:\5B8B\4F53;
mso-font-charset:134;
mso-generic-font-family:auto;
mso-font-pitch:variable;
mso-font-signature:3 680460288 22 0 262145 0;}
@font-face
{font-family:"\@SimSun";
panose-1:2 1 6 0 3 1 1 1 1 1;
mso-font-charset:134;
mso-generic-font-family:auto;
mso-font-pitch:variable;
mso-font-signature:3 680460288 22 0 262145 0;}
/* Style Definitions */
p.MsoNormal, li.MsoNormal, div.MsoNormal
{mso-style-parent:"";
margin:0in;
margin-bottom:.0001pt;
text-align:justify;
text-justify:inter-ideograph;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:13.0pt;
mso-bidi-font-size:12.0pt;
font-family:Arial;
mso-fareast-font-family:"Times New Roman";
mso-bidi-font-family:"Times New Roman";
mso-fareast-language:EN-US;}
p.ListParagraph, li.ListParagraph, div.ListParagraph
{mso-style-name:"List Paragraph";
margin-top:0in;
margin-right:0in;
margin-bottom:0in;
margin-left:.5in;
margin-bottom:.0001pt;
mso-add-space:auto;
text-align:justify;
text-justify:inter-ideograph;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:13.0pt;
mso-bidi-font-size:12.0pt;
font-family:Arial;
mso-fareast-font-family:"Times New Roman";
mso-bidi-font-family:"Times New Roman";
mso-fareast-language:EN-US;}
p.ListParagraphCxSpFirst, li.ListParagraphCxSpFirst, div.ListParagraphCxSpFirst
{mso-style-name:"List ParagraphCxSpFirst";
mso-style-type:export-only;
margin-top:0in;
margin-right:0in;
margin-bottom:0in;
margin-left:.5in;
margin-bottom:.0001pt;
mso-add-space:auto;
text-align:justify;
text-justify:inter-ideograph;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:13.0pt;
mso-bidi-font-size:12.0pt;
font-family:Arial;
mso-fareast-font-family:"Times New Roman";
mso-bidi-font-family:"Times New Roman";
mso-fareast-language:EN-US;}
p.ListParagraphCxSpMiddle, li.ListParagraphCxSpMiddle, div.ListParagraphCxSpMiddle
{mso-style-name:"List ParagraphCxSpMiddle";
mso-style-type:export-only;
margin-top:0in;
margin-right:0in;
margin-bottom:0in;
margin-left:.5in;
margin-bottom:.0001pt;
mso-add-space:auto;
text-align:justify;
text-justify:inter-ideograph;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:13.0pt;
mso-bidi-font-size:12.0pt;
font-family:Arial;
mso-fareast-font-family:"Times New Roman";
mso-bidi-font-family:"Times New Roman";
mso-fareast-language:EN-US;}
p.ListParagraphCxSpLast, li.ListParagraphCxSpLast, div.ListParagraphCxSpLast
{mso-style-name:"List ParagraphCxSpLast";
mso-style-type:export-only;
margin-top:0in;
margin-right:0in;
margin-bottom:0in;
margin-left:.5in;
margin-bottom:.0001pt;
mso-add-space:auto;
text-align:justify;
text-justify:inter-ideograph;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:13.0pt;
mso-bidi-font-size:12.0pt;
font-family:Arial;
mso-fareast-font-family:"Times New Roman";
mso-bidi-font-family:"Times New Roman";
mso-fareast-language:EN-US;}
span.SpellE
{mso-style-name:"";
mso-spl-e:yes;}
span.GramE
{mso-style-name:"";
mso-gram-e:yes;}
@page Section1
{size:8.5in 11.0in;
margin:1.0in 1.25in 1.0in 1.25in;
mso-header-margin:.5in;
mso-footer-margin:.5in;
mso-paper-source:0;}
div.Section1
{page:Section1;}
/* List Definitions */
@list l0
{mso-list-id:1033112127;
mso-list-type:hybrid;
mso-list-template-ids:1598692334 67698705 67698713 67698715 67698703 67698713 67698715 67698703 67698713 67698715;}
@list l0:level1
{mso-level-text:"%1\)";
mso-level-tab-stop:none;
mso-level-number-position:left;
text-indent:-.25in;}
@list l1
{mso-list-id:1424565112;
mso-list-type:hybrid;
mso-list-template-ids:900116996 1910810942 67698713 67698715 67698703 67698713 67698715 67698703 67698713 67698715;}
@list l1:level1
{mso-level-number-format:alpha-lower;
mso-level-text:"%1\)";
mso-level-tab-stop:none;
mso-level-number-position:left;
margin-left:.75in;
text-indent:-.25in;}
ol
{margin-bottom:0in;}
ul
{margin-bottom:0in;}
-->
LỄ TRO CÁC HÀNH VI TÔN
GIÁO
Lm. PX. Vũ Phan Long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Sau khi đã đề
cập đến các quan hệ
với kẻ khác (quan hệ
hàng ngang: x. Mt 5,21-48), Đức Giêsu xác định
cách thức đúng đắn phải theo mà thiết lập quan hệ với Thiên Chúa Cha (quan hệ hàng
dọc: x. 6,1-18). Ba ví dụ về
các hành vi tôn giáo được
nêu ra: bố
thí, cầu nguyện và ăn chay.
Đây là ba tập
tục đạo đức truyền thống của Do-thái giáo.
II. BỐ CỤC
Bản
văn có thể chia thành bốn phần:
1)
Nguyên tắc chung (6,1);
2)
Ba việc đạo đức (6,2-6.16-18):
a)
Bố
thí (cc. 2-4),
b)
Cầu
nguyện (cc. 5-6),
c)
Ăn chay (cc. 16-18).
Ba đoạn được kết cấu như nhau, thành hai
cách song song: lệnh truyền tiêu cực – động lực – phần thưởng; lệnh truyền tích cực – động lực – phần thưởng. Các đoạn này có cùng
những điểm
tương phản như nhau: công khai / ẩn
giấu; để người ta thấy / để Chúa Cha thấy; phần thưởng đã nhận / phần thưởng sẽ nhận từ Chúa Cha.
Cấu trúc này khiến ta thấy ý hướng của đoạn văn không nhắm khuyến khích thực thi các vệic đạo đức ấy, nhưng là đề nghị cách làm tốt.
III. VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI
- để cho thấy (1): Động
từ theaomai có nghĩa là
trình diễn (như diễn kịch)
- bố thí
(2): Eleêmosynê là phẩm chất của một người eleêmôn, người có eleos, lòng từ
bi thương xót, thông cảm, đạo đức, tức đồng nghĩa với từ Híp-ri (k)hesed.
- Bọn đạo đức giả
(2): Hypokritês có nghĩa là “diễn viên”. Người hypokritês diễn kịch, họ giả bộ chú ý đến Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ đặt trọng tâm nơi bản
thân: họ tìm cách được
người ta khen ngợi, thán phục.
- trả lại
(4): Bản hy-ngữ
nói trống: apodôsei, “sẽ trả lại cho người ấy” (apo hàm ý có điều
gì đó ràng buộc; một món nợ).
Trong ngôn ngữ thương mại, đây là việc thành
toán một hóa đơn.
- phòng (6): Tameion, “phòng” đây, trong ngôi nhà
Paléttina, là một thứ “buồng (để thực phẩm)” thường ở dưới
hầm, không có cửa sổ
tức cũng không có ánh
sáng (x. Is 26,20; 2 V
4,33).
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Nguyên tắc chung (1)
Câu mở đầu này nối kết
ch. 6 với 5,20: “Nếu anh em không
ăn ở công chính hơn (dịch sát: “nếu sự công chính của
anh em không
dồi dào hơn) các kinh
sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng
được vào Nước Trời”. Trong Kinh Thánh,
từ ngữ “sự công chính”
(sedeqah) được
dùng để tổng hợp các tương quan của con người với Thiên Chúa, đó
là sự đạo đức, tôn giáo tính,
đức tin.
Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu là Người Cha (3,17; 5,16.45; 6,1.4.6.8.9.14.15.18; 7,11.21). Các tương quan với Ngài phải mang dấu ấn là sự tín
tưởng, tín nhiệm, nhất là sự chân
thật. Ngài là Đấng không thể bị lừa dối bởi những chuyện bề ngoài, đóng kịch. Trước
nhan Ngài, điều đáng kể là các
hành vi chứ
không phải là các lời
nói. Sự trong sáng, sự
chân thật không những là đặc tính của các tương quan với Thiên Chúa mà
còn với cả anh chị
em đồng loại nữa. Lời khuyên Đức Giêsu ban cho các môn
đệ là “đừng phô trương công đức (= dịch sát, “làm sự
công chính, dikaiosynên”) trước mặt (pros) người
ta, để hòng được họ thấy (theathênai)” (x. cha Nguyễn
Thế Thuấn). Người
không nhắm đến các việc làm mà là ý hướng.
Làm các hành
vi phụng tự hoặc các điều Luật đòi hỏi để được người
ta thấy có nghĩa là
hành động để nhận lời khen và tiếng vỗ tay của
họ. Làm như thế là nhắm tới
danh thơm
tiếng tốt của mình. Đây là một thứ
tôn giáo giả danh, nhắm trình diễn (theaomai), thì trống rỗng, vì phá hỏng giá trị của
việc làm.
Do-thái giáo
quy định nhiều việc thực hành đạo đức.
Mt nêu ra ba hành vi tiêu
biểu của “sự công chính”
của người Israel
đạo đức:
bố thí (6,2-4), cầu nguyện (6,5-6) và ăn chay (6,16-18).
* Ba việc đạo
đức (2-6.16-18)
Cần
ghi nhớ hai cách thực
thi: 1) “để được người
ta thấy” và “được họ khen ngợi”
(cc. 2.5.16); đó là cách của bọn “đạo đức giả”; 2) trong quan hệ
thân tình với “Chúa Cha, Đấng thấy trong nơi bí ẩn” (cc. 4.6.18); đây là cách
Đức Giêsu chờ đợi các môn đệ
theo.
Một hành vi thực hiện trước nhan Chúa Cha “nơi kín đáo: (cc. 4.16.18) không có nghĩa
là một “hành vi bí mật”,
mà là bất
cứ hành vi nào, kể cả
hành vi công khai, được thực hiện trước nhan Chúa Cha, Đấng “thấy trong nơi kín đáo”,
nghĩa là Đấng thấu suốt ý hướng sâu xa nhất
của các con tim.
a) Việc bố thí (cc. 2-4). Bố
thí là việc làm “công chính” theo phép cải danh, tức là thay
vì nói là “bố thí”, người ta nói là “sự công chính”. Lý
do: sự bất bình đẳng trong xã hội trên
đất nước Paléttina đặc biệt sau Lưu
đày đã khiến người ta hiểu sự công
chính-từ bi thương xót ưu tiên theo nghĩa là
“bố thí” (x. Xh 22,20-26; 23; Lv 25; Đnl 15; Hc 29,1tt). Việc
bố thí càng trở nên quan trọng hơn với các ngôn
sứ và các bậc hiền giả. Vụ việc của
người nghèo được Thiên Chúa coi là vụ
việc của chính Ngài. Việc bố thí nằm trên
đường hướng của lễ hy sinh: nó xóa
tội lỗi và cho con người xứng đáng nhận
ơn cứu độ (x. Đn 4,24 (LXX); Hc 35,2). “Đừng … như bọn đạo
đức giả thường làm”. Các hành vi mà
người đạo đức giả làm không quy
hướng về Thiên Chúa hoặc về sự thiện hảo
của người thân cận, nhưng cho các quyền
lợi riêng tư của người ấy, cho ti61ng
tăm của riêng người ấy trước mặt
người đời.nếu đó là động lực
thúc đẩy người ấy hành động,
người ấy khôngthể nhận được
bất cứ phần thưởng nào từ phía Thiên Chúa. Người
môn đệ Chúa Kitô phải bố thí theo cách ngược
lại với bọn đạo đức giả,
nghĩa là “đừng cho tay trái biết việc tay
phải làm” (c. 3). Hình ảnh này không muốn nói là phải
nhắm mắt lại khi biếu tặng một món gì,
nhưng là phảicoi mình là xa lạ với chính các hành vi
tốt lành của mình.
b) Cầu nguyện (cc. 5-6).
Cầu nguyện trong Đền Thờ, tại hội
đường và các nôi công cộng, riêng tư hoặc
trong nhà, chiếm một phần quan trọng trong
đời sống người Do-thái (x. Is 58,3-7; Er 2,4; Tb
12,8; Br 1,5). Không có giờ nào trong ngày mà lại khôngcó kèm theo
một lời ngợi khen (chúc tụng) dâng kên Thiên Chúa. Tân
Ước cũng nói đến đòi hỏi này (x. Lc 5,33;
1 Tx 5,17). Trong bài giảng này, Đức Giêsu cảnh giác các
môn đệ coi chừng những méo mó mà sự đạo
đức được tổ chức, nhất là
đạo đức công cộng, có thể gặp. Bổn
phận phải ngỏ lời với Thiên Chúa vào những
lúc nhất định trong ngàyđã đưa người
Do-thái đến những thái độ đạo
đức (đứng, giang tay hoặc giơ tay, cúi mình,
quý gối, phủ phục, v.v.) tại bất cứ
nơi nào họ hiện diện, kể cả nơi công
cộng.sự khoe khoang cũng có thể len lỏi vào trong
lối hành xử chủ yếu thánh thiêng này. Bọn
“đạo đức giả” không phải chỉ là
những người giả bộ một kiểu
đạo đức thực ra không có (x. Mt 22,18), mà còn là
tất cả những ai, ý thức hay không ý thức,
chỉ quan tâm đến hành vi bên ngoài, đến dáng
vẻ bề ngoài, đến nghi thức. Họ nghĩ
rằng khi mình làm tất cả những điều này
đúng luật, thì Thiên Chúa phải coi là đã
được phục vụ, cho dù ý hướng của
người ta có đi tới tận đâu, hoặc
chỉ nhắm cho được người ta nể
trọng và ca ngợi. Đức Giêsu không hề có ý
sửa đổi nghi thức Do-thái về cầu
nguyện, nhưng chỉ gợi ra cách cầu nguyện
đúng đắn khi bào là tránh sự khoe khoang, vụ hình
thức, giả hình. Lời nhắc nhở của
Người cũng ở trong chiều hướng của
truyền thống ngôn sứ và khôn ngoan (x. Am 5,21-25; Hs
8,11-13; Mk 6,6-8; Gr 7; Ed 18; Is 58,1-12; Ge 2,12-13; v.v.). Lời
Đức Giêsu bảo “vào phòng, đóng cửa lại” (c.
6) không phải là một lời dạy phải theo sát
mặt chữ. Ai cầu nguyện trong tình cảnh ấy
không chắc chắn là không bị hư danh thúc đẩy.
Ngay cả trong thinh lặng của phòng mình, người ta
vẫn có thể cầu nguyện như làm một hành vi
ích kỷ. Đức Giêsu muốn nói là phải làm sao
để không xóay vào mình nhưng là một gặp gỡ
với Thiên Chúa. Khi đó, người ta có thể cầu
nguyện nơi công cộng, với cộng đoàn, mà
vẫn đạt mục tiêu là đối thoại
thực sự với Thiên Chúa, cũng như có thể
cầu nguyện riêng tư, nơi phòngh kín, àm vẫn không
đạt mục tiêu. Dù sao “việc cầu nguyện
ẩn giấu” vẫn giúp dễ đi tới tương
quan thân tình với Thiên Chúa là Cha. Vì thế, Đức Giêsu
có thể kết luận: “Và Cha của anh, Đấng
thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại
cho anh”.
c) Ăn chay (cc. 16-18). Ăn chay là một cách quan trọng
để thực hành “sự công chính” cũ và mới. Kiêng
cữ các thực phẩm nhiều ngày, nhiều tuần, là
điều quen thuộc trong thế giới Do-thái. Nếu
tính theo ngày, có thể ăn chay từ một đến 40
ngày; nếu tính theo tuần, có thể ăn chay từ
một đến ba tuần. Kể từ thời Lưu
đày, người ta tăng thêm các thời gian ăn chay
hàng năm (Ngày Lễ Xá tội, Kỷ niệm tàn phá
Đền Thờ; các tai họa công cộng; v.v..
Xem Dcr 7,3.5; 8,19; Er 4,16; Nkm 9,1). Ngày chay nổi tiếng là ngày
Kippur (Lv 16,29; 23,27-32), vì việc ăn chay có kèm theo các nghi
lễ nhằm nêu bật ra bên ngoài ý nghĩa thống
hối của nó: than vãn, gào khóc, mặc các bộ áo thô hèn,
rắc bụi và tro lên người, bỏ các quan hệ vợ
chồng, bỏ săn sóc thân thể, bỏ tắm
rửa, xức dầu thơm, không đi giày, không chào
hỏi, ngủ trên đất, tham dự các buổi
hội họp phụng vụ. Những người
đạo đức ăn chay mỗi tuần hai lần. Việc
ăn chay hạ thấp con người và tiêu diệt các
khát vọng vô trật tự của họ, như thế,
nó thanh luyện, xá tội, ban ân huệ (x. 1 Sm 7,6; 2 Sm 12,6; 1
V 21,27; Gr 36,9; Ge 1,13-14; 2,15; Gn 3,7; Er 8,21-23; Đn 9,3; Tb 12,8;
Et 4,16; Tv 35,13; 69,11; v.v.).
Đức Giêsu khôngkết án việc ăn chay nhưng cách
thức đôi khi người ta theo để ăn chay. Thay
vì diễn tả sự hạ mình của cá nhân, nó lại
trở thànhmột cơ hội để tỏ mình ra
với tính kiêu ngạo, tức hoàn toàn ngược lại
với những gì việc ăn chay phải diễn tả
ra. Thay vì là một hành vi thống hối và quay về
với Thiên Chúa, nó lại là một khẳng định
về tính khoe khoang. Sứ hoán cải chỉ có ở
bề ngoài, không có thật; trái tim, tâm trí vẫn như
cũ, vẫn còn xa Thiên Chúa. Việc ăn chay của
người môn đệ, cũng như việc bố thí
và cầu nguyện, phải làm kín đáo. Đức Giêsu
không hề có ý đề nghị một lối sống
thẩm mỹ thống hối, nhưng mời thính giả
xét lại các ý hướng từng thúc đẩy họ làm
các việc đạo đức. Rửa mặt, xức
dầu thơm là những hành vi mở đầu chó lễ
mừng hơn là cho ngày tang ma, nên chúng che giấu
được các từ bỏ mà hối nhân bắt mình phải
làm. Trong thực tế, người môn đệ ăn chay
có thể giữ một thái độ mừng lễ
bởi vì biết giá trị của việc thống hối
của mình trước nhan Thiên Chúa. Do đó, người
ấy xử sự như đi đến một bữa
tiệc mừng.
Toàn bản văn này cũng mang một sứ điệp
như đoạn 5,13-16: mọi lối xử sự
của người Kitô hữu phải tỏ lộ Thiên
Chúa ra và đưa đến chỗ tôn vinh Người,
chứ không phải là một cơ hội để
đưa mình ra mà khoe khoang hay tự mãn.
] Kết luận
Người nào làm một hành vi tôn giáo mà nhằm một
phần thưởng nhân loại trần thế, thì
mất phần thưởng thần linh và vĩnh cửu. Người
nào làm vì Thiên Chúa, nghĩa là cách nhưng-không, không tìm
phần thưởng, thì được phần
thưởng.
Toàn bản văn và văn cảnh (x. Mt 5,43-48; 6,9-13)
mời ta nối kết đề tài phần thưởng
với đề tài Chúa Cha và quna hệ Cha-con. Để
đáp lại những hành vi nhân loại diễn tả
hữu-thể-trước-Chúa-Cha, điều sẽ
được ban, trước tiên đó là quan hệ
đáp lại từ phía Chúa Cha. Các hành vi tôn giáo trung
thực này sẽ sản siunh hoa trái bên trong: Thiên Chúa
“đáp lại” quan hệ ta thiết lập với
Người. Vậy có thể nói phần thưởng
nằm ngay bên trong: nó chính là dự tăng trưởng quan
hệ Cha-con.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Cách thức “sống sự công chính”
theo Tin Mừng, là sự kín đáo, chiều sâu nội tâm
của các ý hướng, quên mình và ưu tiên cho danh dự
và quyền lợi của Thiên Chúa. Một đời
sống tôn giáo giả danh, quy ngã, thì đã chiếm mất
chỗ của sự đạo đức thật, chũ
yếu là hướng thần. Đây là một sự
đảo lộn vừa phi lý vừa nguy hiểm.
2. Khi bố thí,
người Kitô hữu phải coi là mình ở xa chính mình
đến nỗi mình không còn có thể phân biệt
những gì mình đang làm. Đức Giêsu bảo chúng ta là
phải tránh mọi ý ngầm khi làm hành vi lành thánh
để bào toàn được tính cao siêu và ngay thẳng
của việc giúp đỡ người anh em. Sự khác
biệt cốt yếu giữa việc bố thí của
bọn đạo đức giả và của người
Kitô hữu là một bên làm “trước mặt loài
người”, còn bên kia làm “trước mặt Thiên Chúa”. Bọn
đạo đức giả thì lấy loài người làm
thẩm phán đánh giá việc mình làm, còn Kitô hữu thì
chờ đợi sự đánh giá của chính Thiên Chúa.
3. Xu hướng
dụng-cụ-hóa việc cầu nguyện là sự méo mó
khó giải thích nhất của sự đạo
đức, bởi vì xu hướng này vận dụng vào
mà phục vụ chính ta tất cả những gì chủ
yếu thuộc về Thiên Chúa. Để cầu
nguyện, không phải chỉ nhìn nhận Thiên Chúa cách lý
thuyết là đủ, mà phải gặp gỡ Ngài, cảm
nhận về Ngài, trao đổi trò chuyện với Ngài
như với người bạn, một người cha,
một đồng nghiệp. Nơi cô tịch không
những giúp tránh khoe khoang, mà còn giúp thông giao với Thiên
Chúa.
4. Việc ăn chay,
cũng như mọi đau khổ khác, là một nguồn
vui cho người ăn chay, bởi vì nó cho họ
được đến gần Thiên Chúa hơn. Lời
Đức Giêsu mời gọi hãy có một thái độ
vui tươi thay vì u ám thảm sầu nhấn mạnh
đến ý nghĩa chung cuộc của việc thống
hối Kitô giáo: được chịu đau khổ là
một ân huệ, thì được ăn chay cũng
thế.
Lm. PX. Vũ Phan Long, ofm
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài cùng ngày
Tin/Bài khác
|
|