“Kính
chào Bác sĩ,
Thưa bác sĩ, cháu rất thích các bài viết
của bác sĩ, vì bài viết rất rõ ràng, dễ hiểu mà lại rất vui, dí
dỏm. Cháu lại không may mắn, nên có 1 bác sĩ trị bệnh hơi
nghiêm, nên cháu không dám hỏi những thắc mắc của cháu, xin bác
sĩ giải đáp giùm cháu.
Hôm vừa rồi, cháu mới được bác sĩ cho biết
cháu bi hở cà 4 van tim từ ít tới trung bình. Xin Bác sĩ cho
cháu biết hở van tim có ảnh hưởng tới sức khỏe không? Các triệu
chứng nào cần phải quan tâm? Hở van nào thì nguy hiểm (cháu bị
hở lớn ở van 2 lá và van động mạch chủ). Tải sao lại bị hở?
Chỗ hở có lớn dần với thời gian? Có cách nào làm nhỏ bớt hoặc
ngưng lại chỗ hở (vì bác sĩ của cháu nói khi nào hở lớn hơn thì
phải giải phẩu thay van khác). Cháu rất hay bị nhói đau ngay
trái tim dù cả lúc đang nằm ngủ. Còn làm việc gì thì rất mau
mệt, đi bộ thôi cũng thở hổn hển như người chạy việt dã vậy. Bs
gia đình thì nói nếu thấy mệt quá, hoặc khó thở thì vào nhà
thương, nhưng cháu chẳng biết thế nào là quá. Cháu thường chỉ ở
nhà một mình, nếu thấy mệt thì chỉ nằm nghỉ thôi.
Cám ơn bác sĩ rất nhiều,
Kính thư
Châu Vũ”
Trên đây là email của cháu Châu Vũ ở Việt
Nam hỏi về bệnh tim. Đã trả lời cho cháu qua đài phát thanh VOA,
nhưng vì thời gian giới hạn, cho nên có bài bổ túc này để Vũ
hiểu tường tận hơn. Và cũng để gửi tới đồng hương gần xa về Bệnh
của Van Tim.
Cấu tạo tim
Tim đựoc ví
như một cái bơm, bơm máu đi nuôi cơ thể. Tim co bóp liên tục
ngày đêm từ 80.000-100.000 nhịp mỗi ngày đồng thời bơm ra khoảng
9000 lít máu.
Các cơ của
tim rất mạnh và bền bỉ. Khi co bóp, tim đẩy máu vào các động
mạch. Khi cơ thư giãn, máu tử tĩnh mạch chẩy vào tim..
Tim có 4
ngăn: Tâm nhĩ trái và phải ở trên và tâm thất trái và phải ở
dưới. Để tim hoạt động hữu hiệu, các ngăn này phải phối hợp co
bóp một cách nhịp nhàng đồng điệu.
Máu ra vào tim theo một
vòng kín:
Máu đỏ chứa
nhiều oxy từ phổi theo tĩnh mạch phổi về nhĩ trái, xuống thất
trái rồi vào động mạch chù ra nuôi cơ thể.
Máu đen chứa
nhiều CO2 từ cơ thể theo tĩnh mạch chủ về nhĩ phải, xuống thất
phải rồi theo động mạch phổi lên phổi để thải CO 2 và nhận oxy.
Có 4 cái van
hướng máu đi theo một chiều nhất định mà không dội ngược dòng,
chẳng khác chiếc hom của giỏ đựng cua. Cua đựoc bỏ vào giỏ từ
trên xuống dưới mà không bò ngược lên trên, chốn ra khỏi giỏ.
Van 3 lá
tricuspid giữa nhĩ phải/thất phải;
van phổi giữa
thất phải/ động mạch phổi;
van 2 lá
mitral giữa nhĩ trái/thất trái và
van chủ giữa
thất trái và động mạch chủ.
Van mở hoặc
đóng tùy theo áp xuất ở trước và sau van.
Máu dội ngược
dòng khi van không đóng kín khiến cho máu phía bên kia ứ đọng.
Van không mở rộng cũng khiến cho máu dư một bên mà thiếu một
bên. Tim sẽ phải co bóp nhiều hơn, lâu ngày tim phình, tim mệt,
tim suy.
Bệnh của van
Bệnh của van
có thể là hở (regurgitation), chít hẹp ( stenosis) hoặc teo
(atresia).
- Hở là khi
các lá của van không khép kín sau khi máu đi qua, khiến cho máu
dội ngựơc gây ra ứ đọng phía bên này và thiếu hụt phía bên kia.
Sa van (valve prolapsed) là tiêu biểu của hở van và thường xảy
ra ở van 2 lá mitral. Các lá của van lật ngược lên tâm nhĩ trái,
máu trào ngược khi tim co bóp.
- Chít hẹp
khi van không mở rộng khiến cho máu không xuống hết, máu tụ phía
bên kia mà bên này lại thiếu.
- Teo khi van
không có cửa mở để máu lưu thông.
Bệnh có thể
thấy ở một hoặc nhiều van. Van bên phải ít bị bệnh hơn van bên
trái. Có tới 90% là mãn tính lâu đời, 10% cấp tính, mới xảy ra.
Có nhiều
nguyên nhân đưa tới bệnh van tim như nhiễm trùng, chấn thương,
bệnh cơ tim hoặc do bẩm sinh.
1- Nhiễm
trùng như trong bệnh Sốt Thấp (Rheumatic Fever) hoặc Viêm Nội
Mạc Tim (Endocarditis).
Sốt Thấp
thường thấy ở trẻ em do nhiễm họng với chuỗi cầu trùng tan huyết
Streptococcus (Strep Throat) mà không được điều trị. Thế rồi vài
ba chục năm sau xuất hiện dấu hiệu bệnh tim như là viêm, dày,
cứng và thu ngắn các lá của van tim, nhất là van 2 lá giữa nhĩ
trái/thất trái (mitral regurgitation) và van động mạch chủ. May
mắn là ngày nay nhờ kháng sinh chữa viêm họng cho nên bệnh hở
van tim giảm đi rất nhiều.
Viêm Tâm Mạc
do vi khuẩn xâm nhập máu, tấn công van tim gây ra tổn hại tạm
thời hay vĩnh viễn cho van. Vi khuẩn đến từ các phẫu thuật răng
miệng, lạm dụng thuốc cấm chích tĩnh mạch hoặc nhiễm trùng tổng
quát khác.
2- Bệnh tim
do cao cholesterol, cao huyết áp, không vận động, thừa kế gia
đình. Các bệnh này gây tổn thưong cho van đặc biệt là van động
mạch chủ với calci bám vào. Người từ 65 tuổi trở lên thường nằm
trong trường hợp này.
3- Bẩm sinh
như trường hợp hài nhi chỉ có 2 lá ở van động mạch chủ (thay vì
3 lá) hoặc có 3 lá nhưng 2 lá dính vào nhau.
Triệu chứng
Nhiều người
mang bệnh van tim mà không có triệu chứng và không có khó khăn
sức khỏe. Một số khác thì tình trạng trầm trọng hơn, có thể đưa
tới suy tim, tai biến não, máu cục thậm chí thiệt mạng bất thình
lình vì ngưng tim.
Triệu chứng
chính của bệnh là tiếng thổi của tim (heart murmur) nghe qua ống
nghe, gây ra do máu lưu hành hỗn loạn khi van tim bị hư hại,
khuyết tật, thu hẹp…Đây là tiếng động thêm hoặc bất thường khi
tim co bóp, có thể rất nhỏ hoặc ồn to.
Các triệu
chứng khác gồm có:
-
Mệt mỏi bất thường
-
Thở hụt hơi nhất là khi cố sức hoặc nằm.
-
Phù sưng chân, cổ chân, bàn chân, bụng
-
Chóng mặt quay cuồng, rối loạn nhịp tim.
Không được
theo dõi, điều trị, bệnh van tim có thể đưa tới suy tim, cao áp
xuất và phù nề phổi, rối loạn nhịp tim, huyết cục, tai biến não.
Điều trị
Điều trị bệnh
van tim tùy thuộc loại van bị hư, tình trạng nặng hay nhẹ của
bệnh. Có 3 phương thức trị liệu:
1- Theo dõi tình trạng bệnh.
Trường hợp
bệnh nhẹ hoặc trung bình, chưa có các triệu chứng trầm trọng ảnh
hưởng tới hoạt động của bệnh nhân, bệnh có thể được đặt trong
tình trạng theo dõi. Bác sĩ sẽ làm các thử nghiệm để quan sát
diễn tiến bệnh, đưa ra các hướng dẫn để giảm thiểu biến chứng.
Bệnh nhân cũng cần thay đổi nếp sống sao cho thích hợp với bệnh
tình.
2- Điều trị bằng dược phẩm
Thực ra không có dược phẩm nào để trị dứt
được bệnh của van tim mà chỉ hỗ trợ tim, giúp tim làm việc hữu
hiệu hơn, trì hoãn sự trầm trọng của bệnh, tránh biến chứng.
Dược phẩm có thể là thuốc lợi tiểu, hạ cao huyết áp, điều chỉnh
rối loạn nhịp tim, chống đông máu…Cần một bác sĩ chuyên môn tim
mạch chăm sóc thường xuyên.
3- Giải phẫu
Tùy theo tình trạng bệnh, giải phẫu có thể
là nong van, sửa van hoặc thay van.
- Nong van bị hep với quả bóng xẹp bé tí
teo đưa vào van rồi bơm phồng lên, khiến cho van mở rộng rồi rút
bóng ra. Được áp dụng trong vài loại bệnh của van, thay cho việc
đặt van mới.
- Sửa van, đặc biệt là van 2 lá mitral, để
van hư hao hoạt động bình thường trở lại đựơc.
- Thay van với 2 loại van:
* Van làm bằng các vật liệu như vải, kim
loại thép không rỉ, titanium hoặc gốm sứ.Lợi điểm của loại này
là kéo dài lâu hơn, từ 10-20 năm. Tuy nhiên bệnh nhân phải uống
thuốc chống đông máu suốt đời để tránh huyết cục ở tim hoặc trên
van.
** Van làm bằng tế bào người hoặc súc vật
như heo, bò, dùng được từ 10 -15 năm nhưng bệnh nhân có thể
không phải uống thuốc chống đông máu.
Sau khi ổn định với điều trị, bệnh nhân
tiếp tục cần được bác sĩ theo dõi. Báo cho bác sĩ nếu có thay
đổi, biến chứng bất thường. Uống thuốc theo đúng chỉ định. Giữ
hẹn với bác. Thay đổi nếp sống sao cho thich hợp với tình trạng
sức khỏe của mình.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ.
www.bsnguyenyduc.com
|